|
Thanh Từ Toàn Tập 11 - Kinh Hoa Nghiêm Trích Giảng (Phần 2)
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thiện Tài đi lần đến thành Sư Tử tìm trưởng giả Bảo Kế, thấy Trưởng giả này ở trong chợ. Thiện Tài vội đến đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Lành thay đức Thánh! Xin vì tôi mà giảng nói các Bồ-tát đạo, để tôi thừa đạo này mà đến Nhất thiết trí. Định của Nhị thừa và định của Bồ-tát khác nhau. Nhị thừa tu thiền định ở rừng sâu, trong hang núi hoặc nơi vắng vẻ. Bồ-tát trái lại, thiền định ngay chỗ động. Vì vậy diễn tả bằng hình ảnh Thiện Tài gặp Trưởng giả ở trong chợ. Lúc đó, Trưởng giả cầm tay Thiện Tài dắt đến chỗ ông ở, chỉ nhà của ông mà bảo Thiện Tài xem. Thiện Tài thấy nhà của Trưởng giả thanh tịnh quang minh làm bằng chân kim, vách bằng bạch ngân, điện bằng pha lê, lưu ly bảo màu biếc dùng làm lầu gác, trụ bằng xà cừ diệu bảo, khắp nơi trang nghiêm với trăm ngàn diệu bảo, sư tử tòa bằng xích châu ma-ni. Màn ma-ni và lưới chân châu giăng phía trên. Ao bằng mã não bảo đầy nước thơm. Vô lượng cây báu bày hàng khắp nơi. Nhà đó rộng rãi mười từng, tám cửa. Khi đã vào nhà, Thiện Tài theo thứ đệ mà quán sát. Thấy từng dưới hết thí những đồ uống ăn. Thấy từng thứ hai thí những bảo y. Thấy từng thứ ba bố thí tất cả đồ báu trang nghiêm. Thấy từng thứ tư thí những thể nữ và tất cả trân bảo thượng diệu. Thấy từng thứ năm có chư Bồ-tát, nhẫn đến Ngũ địa Bồ-tát vân tập, diễn nói các pháp lợi ích chúng sanh, thành tựu tất cả đà-la-ni môn, các tam-muội ấn, các tam-muội hạnh, trí tuệ quang minh. Thấy từng thứ sáu có chư Bồ-tát đều đã thành tựu trí tuệ thậm thâm, minh liễu thông đạt nơi pháp tánh, thành tựu môn tổng trì tam-muội quảng đại không chướng ngại, chỗ làm vô ngại chẳng trụ hai pháp. Ở trong bất khả thuyết diệu trang nghiêm đạo tràng mà cùng tập hội phân biệt hiển thị môn Bát-nhã ba-la-mật: Những là môn Bát-nhã ba-la-mật tịch tịnh tạng. Môn Bát-nhã ba-la-mật khéo phân biệt trí của các chúng sanh. Môn Bát-nhã ba-la-mật chẳng thể động chuyển. Môn Bát-nhã ba-la-mật ly dục quang minh. Môn Bát-nhã ba-la-mật chẳng thể hàng phục. Môn Bát-nhã ba-la-mật chiếu chúng sanh luân. Môn hải tạng Bát-nhã ba-la-mật. Môn Bát nhã ba-la-mật phổ nhãn xả đắc. Môn Bát-nhã ba-la-mật nhập vô tận tạng. Môn Bát-nhã ba-la-mật nhập tất cả phương tiện hải. Môn Bát-nhã ba-la-mật nhập tất cả thế gian hải. Môn Bát-nhã ba-la-mật vô ngại biện tài. Môn Bát-nhã ba-la-mật tùy thuận chúng sanh. Môn Bát-nhã ba-la-mật vô ngại quang minh. Môn Bát-nhã ba-la-mật thường quán túc duyên mà bủa mây pháp... diễn thuyết trăm vạn vô số môn Bát-nhã ba-la-mật như vậy. Thấy từng nhà thứ bảy có chư Bồ-tát được như hưởng nhẫn, dùng phương tiện trí phân biệt quán sát mà được xuất ly, đều có thể nghe và thọ trì chánh pháp của chư Phật. Thấy từng thứ tám có vô lượng Bồ-tát cùng hội họp trong đó, đều được thần thông không còn thối đọa. Có thể dùng một âm thanh khắp mười phương cõi. Thân của các ngài hiện khắp tất cả đạo tràng, cùng khắp pháp giới. Vào khắp Phật cảnh, thấy khắp thân Phật. Ở trong tất cả Phật chúng hội mà làm thượng thủ, diễn thuyết các pháp. Thấy từng lầu thứ chín chư Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ tập hội trong đó. Thấy từng lầu thứ mười, chư Phật Như Lai ngự đầy trong đó. Từ sơ phát tâm tu Bồ-tát hạnh siêu xuất sanh tử, thành mãn đại nguyện và thần thông lực, tịnh Phật độ và đạo tràng chúng hội chuyển chánh pháp luân điều phục chúng sanh. Đều làm cho được thấy rõ tất cả như vậy. Tả cảnh nhà của trưởng giả có mười tầng, tám cửa. Mười tầng nhà là tượng trưng cho Thập độ. Độ thứ nhất là Bố thí, nên tầng một ban cho đồ ăn uống. Độ thứ hai là Trì giới, giới luật cũng như y phục, nên tầng hai thí bảo y. Độ thứ ba là Nhẫn nhục, nhẫn nhục như đồ trang sức, nên tầng ba bố thí trân báu trang nghiêm. Độ thứ tư là Tinh tấn, nên tầng bốn thí cho những thể nữ và tất cả trân báu thượng diệu. Độ thứ năm là Thiền định, nên tầng năm có chư Bồ-tát, nhẫn đến ngũ địa Bồ-tát vân tập, nói pháp lợi ích chúng sanh, thành tựu các môn tam-muội, trí tuệ quang minh. Độ thứ sáu là Bát-nhã, nên tầng sáu có chư Bồ-tát đều đã thành tựu trí tuệ thậm thâm, thông đạt Bát-nhã… cùng phân biệt hiển thị môn Bát-nhã ba-la-mật. Độ thứ bảy là Phương tiện thiện xảo, nên tầng bảy có chư Bồ-tát dùng trí tuệ phương tiện phân biệt quán sát mà được xuất ly, có thể nghe và thọ trì chánh pháp của Phật. Độ thứ tám là Nguyện, nên tầng tám có vô lượng Bồ-tát cùng hội họp. Các vị này đều được thần thông không còn thối đọa... ở trong hội chúng của Phật, luôn làm thượng thủ diễn thuyết các pháp. Độ thứ chín là Lực, nên tầng chín có chư Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ tập hội. Độ thứ mười là Trí tuệ, nên tầng mười thấy chư Phật Như Lai ngự trong đó. Do tu pháp thiền định mà xuất sanh từ chư Phật cho đến những pháp Thập độ... Vì vậy tất cả đều hiện trong nhà của trưởng giả Bảo Kế. Thiện Tài thấy sự như vậy rồi, bạch rằng: Bạch đức Thánh! Do duyên gì mà thành chúng hội thanh tịnh này? Gieo căn lành gì mà được báo như vậy? Trưởng giả nói: Này Thiện nam tử! Ta nhớ thuở quá khứ, quá Phật sát vi trần số kiếp, có thế giới tên là Viên Mãn Trang Nghiêm. Phật hiệu là Vô Biên Quang Minh Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Đức Phật đó vào thành, ta tấu nhạc và đốt một nén hương cúng dường. Ta đem công đức ấy hồi hướng ba chỗ: Xa lìa tất cả nghèo cùng khốn khổ, thường thấy chư Phật và thiện tri thức, hằng nghe chánh pháp. Do nhân duyên đó mà được báo này. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ-tát vô lượng phước đức bảo tạng này. Như chư đại Bồ-tát được bất tư nghì công đức bảo tạng, nhập vô phân biệt Như Lai thân hải, thọ vô phân biệt vô thượng pháp vân, tu vô phân biệt công đức đạo cụ, khởi vô phân biệt Phổ Hiền hạnh võng, nhập vô phân biệt tam-muội cảnh giới, đồng vô phân biệt Bồ-tát thiện căn, trụ vô phân biệt sở trụ của Như Lai, chứng vô phân biệt tam thế bình đẳng, trụ vô phân biệt phổ nhãn cảnh giới, trụ tất cả kiếp không có mỏi nhàm. Ta làm sao biết được, nói được công đức hạnh đó. Tấu nhạc và đốt hương cúng dường, lấy đó làm nhân để hồi hướng công đức về cho ba chỗ: Một là xa lìa nghèo cùng khốn khổ, hai là thường thấy chư Phật và bậc thiện tri thức, ba là hằng được nghe chánh pháp. Đốt hương, tấu nhạc, việc làm này dễ quá. Nhân nhỏ mà sao lại được quả to? Bởi ngài phát tâm từ thuở quá khứ lâu xa, trải qua số kiếp nhiều như vi trần gieo trồng nhân thờ Phật, cúng dường Phật... cho nên bây giờ mới được hưởng quả báo tốt đẹp như vậy. Tấu nhạc, đốt hương cúng dường có ý nghĩa gì trong pháp tu thiền định? Nếu theo thiền định phàm phu thì không liên hệ, nhưng theo ý nghĩa thiền duyệt vi thực thì đi đứng nằm ngồi đều sống trong an lạc của thiền định. Cho nên tấu nhạc là để nói lên sự vui vẻ an lạc, thắp hương cúng dường là nói lên sự thanh tịnh trang nghiêm. Đó là sống thiền, là gốc của sự tu tập. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Đằng Căn. Nước đó có thành tên là Phổ Môn. Trong thành có một trưởng giả tên là Phổ Nhãn. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân của trưởng giả Pháp Bảo Kế, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến đây là Thiện hiện hạnh, tức phần thứ sáu trong Thập hạnh. Nước tên Đằng Căn, thành tên Phổ Môn, trưởng giả tên Phổ Nhãn. Phổ Môn là cửa rộng khắp không ngằn mé, Phổ Nhãn là con mắt trông thấy cùng khắp. Vì là pháp tu thuộc về trí tuệ Bát-nhã nên tên thành và tên trưởng giả giống nhau. Lúc đó Thiện Tài được nghe môn giải thoát Bồ-tát vô lượng phước đức bảo tạng nơi trưởng giả Bảo Kế rồi, được thâm nhập vô lượng tri kiến của chư Phật, an trụ vô lượng thắng hạnh của Bồ-tát, thấu rõ vô lượng phương tiện của Bồ-tát, mong cầu vô lượng pháp môn của Bồ-tát, thanh tịnh vô lượng tín giải của Bồ-tát, minh lợi vô lượng căn của Bồ-tát, thành tựu vô lượng dục lạc của Bồ-tát, thông đạt vô lượng hạnh môn của Bồ-tát, tăng trưởng vô lượng nguyện lực của Bồ-tát, kiến lập tràng vô năng thắng của Bồ-tát, khởi trí Bồ-tát, chiếu pháp Bồ-tát. Thiện Tài đi lần đến nước Đằng Căn, tìm hỏi thành Phổ Môn. Dầu trải qua nhiều gian lao nhưng chẳng nệ nhọc, chỉ nhớ lời dạy của thiện tri thức, nguyện thường được thân cận để phụng thờ cúng dường, sách tấn chư căn lìa những phóng dật. Sau đó Thiện Tài đến thành Phổ Môn, thấy trăm ngàn tụ lạc bao vây chung quanh. Tường thành cao nghiêm, đường xá rộng bằng. Thiện Tài vào thành tìm gặp trưởng giả Phổ Nhãn, liền đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Trưởng giả nói: Này Thiện nam tử! Lành thay, lành thay! Ngươi đã có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta biết tất cả bệnh của các chúng sanh. Những bệnh phong, đàm, nóng, cổ độc, quỷ mị dựa, nhẫn đến bị nước, bị lửa thương hại, ta đều có thể dùng phương tiện chữa lành cả. Này Thiện nam tử! Mười phương chúng sanh, những kẻ có bệnh đến ta, ta đều chữa trị cho họ được lành mạnh. Lại lấy nước thơm tắm rửa thân thể họ. Lại ban cho họ những hương hoa, anh lạc, y phục đẹp, những đồ trang sức, đồ ăn thức uống và những vàng bạc, tất cả đều đầy đủ không ai thiếu thốn. Rồi sau mới vì họ mà tùy cơ nghi thuyết pháp. Bồ-tát dùng trí tuệ biết rõ những căn bệnh của chúng sanh, chữa trị cho được lành, rồi sau mới đem giáo pháp ra chỉ dạy khiến cho được an ổn vui vẻ. Vì người tham dục nhiều dạy họ quán bất tịnh. Vì người sân hận nhiều dạy họ quán từ bi. Vì người ngu si nhiều dạy họ phân biệt các pháp tướng. Đây là tùy bệnh mà cho thuốc. Người tham sắc dục nên dạy quán bất tịnh để đối trị. Người nhiều sân hận thì dạy quán từ bi. Kẻ ngu si nặng, dạy phân biệt các pháp tướng, tức là quán giới phân biệt. Như quán sát thập bát giới, trong thân có căn và thức, bên ngoài có trần, phân chia mỗi giới phân biệt rành rõ, đó là dùng trí tuệ quán sát cho bớt ngu si. Vì người đẳng phần phiền não dạy họ pháp môn thù thắng. Đẳng phần phiền não tức là ba phần tham sân si bằng nhau. Đối với hạng người này nên dạy họ pháp môn thù thắng. Thông thường đối người đẳng phần phiền não, thì nên dạy họ quán Phật tam-muội, đây gọi là pháp môn thù thắng. Quán Phật tam-muội tức là quán hình tướng Phật, rồi tới quán pháp thân Phật... đó là phương tiện tu quán. Vì muốn cho họ phát Bồ-đề tâm, nên xưng dương công đức của tất cả chư Phật. Vì muốn cho họ khởi lòng đại bi, nên hiển thị sanh tử vô lượng khổ não. Vì muốn cho họ tăng trưởng công đức, nên tán thán tu tập vô lượng phước trí. Vì muốn cho họ phát đại nguyện, nên tán thán công hạnh điều phục chúng sanh. Vì muốn cho chúng sanh phát tâm, muốn cho họ đầy đủ các công hạnh, nên xưng dương tán thán công đức của chư Phật Bồ-tát, khiến cho họ phát tâm. Vì muốn cho họ tu Phổ Hiền hạnh, nên nói Bồ-tát ở tất cả cõi trong tất cả kiếp tu những công hạnh. Vì muốn cho họ đủ tướng hảo của Phật, nên tán dương Đàn ba-la-mật. Vì muốn cho họ được tịnh thân của Phật có thể đến khắp tất cả xứ, nên tán dương Thi ba-la-mật. Đây nói đến Phật độ, quả báo của Phật độ như thế nào? Nếu muốn được ba mươi hai tướng tốt như Phật thì nên tu Bố thí ba-la-mật. Muốn được thân thanh tịnh, tướng hảo trang nghiêm của Phật thì phải tu Trì giới ba-la-mật. Vì muốn cho họ được thân thanh tịnh bất tư nghì của Phật, nên tán dương Nhẫn ba-la-mật. Vì muốn cho họ được thân vô năng thắng của Phật, nên tán dương Tinh tấn ba-la-mật. Người nào muốn được thân vô năng thắng của Phật, không gì bì kịp, không ai có thể hơn được thì tu Tinh tấn ba-la-mật. Vì muốn cho họ được thân thanh tịnh vô đẳng nên tán dương Thiền ba-la-mật. Vì muốn cho họ hiển hiện Như Lai thanh tịnh pháp thân, nên tán dương Bát-nhã ba-la-mật. Vì muốn chúng sanh được thân Phật thanh tịnh không gì sánh bằng, nên dạy họ tu Thiền ba-la-mật. Vì muốn hiển hiện pháp thân Phật nên khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật. Vì muốn cho họ hiện Phật thanh tịnh sắc thân, nên tán dương Phương tiện ba-la-mật. Vì muốn cho họ hiện thân thanh tịnh quá tất cả Phật độ, nên tán dương Lực ba-la-mật. Vì muốn cho họ hiện thanh tịnh thân tùy tâm chúng sanh làm cho họ hoan hỷ, nên tán dương Trí ba-la-mật. Vì muốn cho họ thân rốt ráo thanh tịnh vi diệu, nên tán dương lìa hẳn tất cả pháp bất thiện. Bố thí như vậy rồi, đều bảo họ trở về. Vì muốn cho họ hiện sắc thân Phật thanh tịnh, nên tán dương tu Phương tiện ba-la-mật. Vì muốn qua đến tất cả cõi Phật, nên tu Lực ba-la-mật. Tùy theo tâm của chúng sanh làm cho họ hoan hỷ nên khen ngợi Trí ba-la-mật. Chúng sanh muốn được thân rốt ráo thanh tịnh vi diệu, thì phải lìa hẳn các pháp bất thiện. Đó là dạy tu pháp Thập độ. Này Thiện nam tử! Ta lại khéo biết phương pháp hòa hợp tất cả thứ hương. Những là vô đẳng hương, tân-đầu-ba-la hương, vô thắng hương, giác ngộ hương, a-lô-na-bạt-để hương, kiên hắc chiên-đàn hương, ô-lạc-ca chiên-đàn hương, trầm thủy hương, bất động chư căn hương. Này Thiện nam tử! Ta cầm hương này để cúng dường, thấy khắp chư Phật, thỏa mãn bổn nguyện. Những là nguyện cứu hộ tất cả chúng sanh, nguyện nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, nguyện cúng dường tất cả Như Lai. Này Thiện nam tử! Lúc đốt thứ hương này, trong mỗi mỗi hương phát ra vô lượng hương, khắp đến mười phương tất cả pháp giới, tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, hoặc làm hương cung, hoặc làm hương điện, hương lan can, hương tường rào, hương hào thành, hương cửa nẻo, hương lầu gác, hương bán nguyệt, hương lọng, hương tràng, hương phan, hương trướng, hương màn lưới, hương hình tượng, hương đồ trang nghiêm, hương quang minh, hương vân vũ, xứ xứ sung mãn để làm trang nghiêm. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn làm cho tất cả chúng sanh thấy chư Phật hoan hỷ. Này chư đại Bồ-tát, như đại dược vương, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc ghi nhớ, hoặc đồng ở, hoặc đi theo, hoặc xưng danh hiệu đều được lợi ích không luống uổng. Nếu có chúng sanh tạm được gặp gỡ chư đại Bồ-tát tất làm cho tiêu diệt tất cả phiền não, vào Phật pháp, lìa khổ uẩn, dứt hẳn sự kinh sợ về sanh tử, đến chỗ Nhất thiết trí vô sở úy, xô dẹp tất cả núi lớn sanh tử, an trụ nơi chỗ vui bình đẳng tịch diệt... Ta thế nào biết được, nói được hạnh công đức đó? Các thứ hương là chỉ cho tất cả pháp tu của Phật dạy. Trưởng giả Phổ Nhãn khéo hòa hợp các pháp môn Phật dạy để làm lợi ích chúng sanh, lấy đó dâng lên cúng dường chư Phật. Do ngài tu Bát-nhã ba-la-mật, nên có đầy đủ các phương tiện đối với chúng sanh. Nếu không phải Trí Bát-nhã thì làm sao khéo dùng được tất cả Phật pháp. Nên nói, khéo biết phương pháp hòa hợp tất cả thứ hương, hay làm cho chúng sanh thấy chư Phật, được hoan hỷ. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Đa-la Tràng, có vua tên là Vô Yểm Túc. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân trưởng giả Phổ Nhãn, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ức niệm tư duy lời dạy của thiện tri thức. Nghĩ rằng thiện tri thức có thể nhiếp thọ tôi, có thể thủ hộ tôi, làm cho tôi không thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tư duy như vậy sanh tâm hoan hỷ, tâm tịnh tín, tâm quảng đại, tâm thơ thới, tâm hớn hở, tâm mừng rỡ, tâm thắng diệu, tâm tịch tịnh, tâm trang nghiêm, tâm vô trước, tâm vô ngại, tâm bình đẳng, tâm tự tại, tâm trụ pháp, tâm ở khắp cõi Phật, tâm thấy Phật trang nghiêm, tâm chẳng bỏ thập lực. Phần này nói đến Vô trước hạnh, là hạnh thứ bảy trong Thập hạnh. Vô trước hạnh là phương tiện, nên thành này tên Đa-la Tràng, vua tên Vô Yểm Túc. Vô yểm túc là không bao giờ thấy đủ. Bởi không cho những công hạnh của mình là đầy đủ viên mãn nên không dừng trụ, lúc nào cũng tu để tiến lên. Đồng tử Thiện Tài tưởng nhớ lại những lời dạy của thiện tri thức có thể nhiếp thọ, khiến cho không thối chuyển nơi đạo Vô thượng. Nghĩ rồi sanh tâm hoan hỷ, tâm tịnh tín... thực hành theo lời dạy của thiện tri thức mà tiến tu. Thiện Tài đi lần đến thành Đa-la Tràng hỏi thăm chỗ ở của vua Vô Yểm Túc. Mọi người bảo rằng nhà vua hiện ở chánh điện, ngồi tòa sư tử, tuyên bố pháp hóa điều ngự chúng sanh. Kẻ đáng trị tội thì trị, kẻ đáng phạt thì phạt, kẻ đáng nhiếp thì nhiếp. Phạt tội ác của họ, giải quyết sự tranh tụng của họ. Thương người cô cùng yếu đuối. Đều làm cho nhân dân dứt hẳn sự giết hại, trộm cướp, tà dâm. Cũng làm cho họ bỏ sự nói dối, nói thô ác, nói ly gián, nói thêu dệt. Lại làm cho họ xa lìa tham lam, sân hận, tà kiến. Thiện Tài theo chỗ chỉ dẫn của mọi người mà đến chánh điện. Thấy nhà vua ngự tòa na-la-diên kim cang. Tòa này chân bằng vô số thứ báu, vô lượng hình tượng để trang nghiêm, dây vàng làm lưới giăng phía trên. Nhà vua đầu đội bảo quan như ý ma-ni. Vàng diêm-phù-đàn làm hình bán nguyệt để trang nghiêm nơi trán. Đế thanh ma-ni làm vòng tai hai bên đối nhau thòng xuống. Ma-ni vô giá làm chuỗi đeo nơi cổ. Ma-ni đẹp cõi trời làm ấn xuyến mang nơi cánh tay. Vàng diêm phù-đàn làm lọng. Các báu xen lẫn dùng làm vành cọng. Cán bằng đại lưu ly bảo. Quang vị ma-ni dùng làm núm. Các báu làm linh hằng vang tiếng diệu. Phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương. Lọng báu trên đây che cho nhà vua. Vô Yểm Túc vương có thế lực lớn có thể làm khuất phục chúng khác, không ai địch lại. Lấy lụa ly cấu vấn trên đảnh. Mười ngàn đại thần cùng xử lý quốc sự. Trước mặt nhà vua, hai bên có mười vạn lính mạnh, hình ác, y phục xấu, tay cầm binh khí, xăn tay trợn mắt. Ai ngó thấy cũng phải kinh sợ. Những chúng sanh phạm pháp: Hoặc trộm vật của người, hoặc hại mạng người, hoặc xâm vợ người, hoặc sanh tà kiến, hoặc khởi sân hận, hoặc tham lam tật đố, thân bị ngũ phược dắt đến chỗ vua. Tùy theo chỗ họ phạm mà trị tội: Hoặc chặt tay chân, hoặc cắt tai mũi, hoặc khoét đôi mắt, hoặc chém đầu, hoặc lột da, hoặc phân thây, hoặc đem nấu, hoặc đem đốt, hoặc dắt lên núi cao xô té xuống... Vô lượng sự hành hình độc ác như vậy. Tiếng phạm nhân kêu khóc dường như trong địa ngục Chúng Hiệp. Thiện Tài đi đến thấy nhà vua ngồi ở tòa na-la-diên kim cang làm bằng vô số thứ báu trang nghiêm. Nhà vua trị tội rất nặng đối với những người phạm mười điều ác... Hình phạt thật độc ác khiến chúng phạm nhân kêu khóc vang rên, không lúc nào dứt. Thấy thế, Thiện Tài nghĩ rằng: Tôi vì lợi ích chúng sanh mà cầu Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo. Nay nhà vua Vô Yểm Túc này diệt pháp lành, tạo đại tội, bức não chúng sanh, nhẫn đến giết chết, không sợ bị đọa ác đạo sau này. Sao tôi lại muốn ở nhà vua này mà cầu chánh pháp, phát tâm đại bi cứu hộ chúng sanh. Lúc Thiện Tài nghĩ như vậy, trên hư không có trời bảo rằng: Này Thiện nam tử! Ngươi phải ghi nhớ lời dạy của trưởng giả Phổ Nhãn. Thiện Tài ngửa mặt nói: Tôi luôn ghi nhớ không hề tạm quên. Trời bảo: Thiện nam tử chớ nhàm lìa lời của thiện tri thức. Thiện tri thức có thể dắt dẫn người đến chỗ an ổn không hiểm nạn. Này Thiện nam tử! Bồ-tát thiện xảo phương tiện trí chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp thọ chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, hộ niệm chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, thủ hộ chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, độ thoát chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, điều phục chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn. Đồng tử Thiện Tài thấy vậy bất nhẫn thầm nghĩ muốn thối lui, ngay lúc ấy trên hư không có tiếng chư thiên bảo phải ghi nhớ lời dạy của trưởng giả Phổ Nhãn. Thiện Tài ngửa mặt nói: Tôi luôn ghi nhớ không hề tạm quên. Nhờ được chư thiên nhắc nhở, Thiện Tài nhớ lại lời thiện tri thức dạy bảo phải đến đây, nên quyết tâm tiến vào không thối lui. Hình ảnh này cho thấy chỗ bất khả tư nghì của Bồ-tát, bên ngoài trông rất hung ác, nhưng bên trong đầy lòng đại bi. Xét theo lý thì khi nghe chư thiên nhắc, chính là chỉ cho trí tuệ của chính mình, nhờ dùng trí suy xét rồi đặt hết niềm tin vào thiện tri thức nên không lui sụt. Đó là phương tiện khéo léo vô cùng của các ngài. Thiện Tài nghe xong liền đến đảnh lễ nơi chân vua Vô Yểm Túc tâu rằng: Bạch Đại thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì tôi mà giảng nói. Vua Vô Yểm Túc xử lý quốc sự xong, cầm tay Thiện Tài dắt vào nội cung bảo cùng ngồi, nói rằng: Này Thiện nam tử! Ngươi quán sát cung điện của ta ở đây. Tuân lời nhà vua, Thiện Tài quán sát khắp cung. Thấy cung điện này rộng lớn vô tỷ, đều làm bằng diệu bảo. Tường rào bao quanh bằng thất bảo, trăm ngàn thứ báu xây các lầu các, tất cả sự trang nghiêm đều diệu hảo. Màn lưới bất tư nghì ma-ni giăng che phía trên. Mười ức thị nữ đoan trang xinh đẹp khả ái. Phàm chỗ làm đều xảo diệu, lúc dậy, lúc nằm đều thừa thuận ý nhà vua. Vua Vô Yểm Túc bảo Thiện Tài: Này Thiện nam tử! Nếu ta thật gây ác nghiệp thời sao lại được quả báo tốt đẹp này, sắc thân như đây, quyến thuộc như vậy, giàu sang như vậy, tự tại như vậy? Này Thiện nam tử! Ta được Bồ-tát như huyễn giải thoát. Thiện Tài tiến vào gặp nhà vua, vua không nói gì chỉ cầm tay dẫn vào nội cung, chỉ cho thấy tất cả sự trang nghiêm trong cung rồi nói, nếu ta thật làm ác thì làm gì được quả báo tốt đẹp này. Phương tiện giáo hóa của Bồ-tát, với con mắt phàm tục chúng ta không thể lường nổi. Đang lúc người ta bất nhẫn có giải thích gì cũng vô ích, các ngài chỉ cần dẫn vào cho thấy sự thật và kết luận: Ta đã được Bồ-tát như huyễn giải thoát. Bởi thấy như huyễn nên mới có đầy đủ phương tiện độ chúng sanh như vậy. Này Thiện nam tử! Nước của ta, dân chúng nhiều người làm việc trộm cướp giết hại, nhẫn đến tà kiến. Dùng phương tiện khác không thể làm cho họ bỏ ác nghiệp. Này Thiện nam tử! Ta vì điều phục chúng sanh đó mà hóa hiện những người ác tạo tội nghiệp bị hành hình khốn khổ. Làm cho những dân chúng làm ác nghe thấy mà kinh sợ chừa ác làm lành phát tâm Bồ-đề. Bồ-tát đầy đủ phương tiện nên dễ giáo hóa chúng sanh, còn chúng ta do thiếu trí tuệ phương tiện nên độ người bị người cự lại, nếu có đầy đủ phương tiện như vậy thì việc độ người chắc cũng không khó. Này Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện thiện xảo như vậy làm cho dân chúng bỏ mười ác nghiệp mà an trụ nơi mười hạnh lành, rốt ráo khoái lạc, rốt ráo an ổn, rốt ráo trụ ở bậc Nhất thiết trí. Lời này chứng minh pháp tu của Vô Yểm Túc là pháp tu phương tiện thiện xảo. Này Thiện nam tử! Thân ngữ ý của ta chưa từng não hại đến một chúng sanh. Như tâm ý của ta, thà ở vị lai chịu vô gián khổ, chứ trọn không móng một niệm làm khổ cho một con muỗi con kiến, huống lại làm khổ người. Vì người là phước điền có thể sanh tất cả những pháp lành. Dù thấy hành hình đủ thứ, nhưng sự thật nơi thân ngữ ý chưa từng não hại một chúng sanh nào, nếu có não hại thì chưa phải là Bồ-tát, đó chỉ là phương tiện của Bồ-tát dùng để giáo hóa chúng sanh mà thôi. Trong tâm các ngài không móng khởi một niệm làm hại muỗi kiến, huống là nghĩ đến việc gây khổ cho người. Tất cả hình phạt đó chỉ là huyễn hóa do Bồ-tát thị hiện ra, chứ không phải sự thật nhất định. Này Thiện nam tử! Ta chỉ được môn Như huyễn giải thoát này. Như chư đại Bồ-tát được Vô sanh nhẫn biết những loài hữu lậu đều như huyễn. Những hạnh Bồ-tát như hóa. Tất cả thế gian đều như bóng. Tất cả pháp đều như mộng. Nhập chân như tướng vô ngại pháp môn. Tu hành đế võng tất cả công hạnh. Dùng trí vô ngại đi trong các cảnh giới. Nhập khắp tất cả bình đẳng tam-muội. Nơi đà-la-ni đã tự tại... Mà ta làm sao nói được, biết được công đức hạnh đó. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có thành tên là Diệu Quang. Nhà vua tên là Đại Quang. Ngươi qua đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân vua Vô Yểm Túc, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ mà đi. Hạnh thứ tám trong Thập hạnh là Nan đắc hạnh, tức hạnh khó được. Thành tên Diệu Quang, vua tên Đại Quang. Thành và tên của nhà vua đều có chữ quang, để nói lên hào quang đó sáng phi thường, lớn lao không gì so lường được. Hạnh nan đắc là hạnh tu thuộc về Nguyện ba-la-mật. Sở dĩ Bồ-tát thành tựu bao nhiêu công đức cũng đều từ gốc đại nguyện mà ra, nên đây dùng chữ đại quang. Bấy giờ Thiện Tài nhất tâm chánh niệm pháp môn như huyễn trí của nhà vua. Tư duy như huyễn giải thoát của nhà vua. Quán sát pháp tánh như huyễn của nhà vua. Phát như huyễn nguyện. Tịnh như huyễn pháp. Khắp ở tất cả tam thế như huyễn mà khởi những biến hóa như huyễn. Tư duy như vậy, Thiện Tài đi lần qua phương Nam, hoặc đến thành ấp tụ lạc, hoặc đi qua đồng hoang, hang hố hiểm nạn vẫn không mỏi lười, chưa từng ngơi nghỉ. Sau đó mới đến thành Diệu Quang, hỏi người rằng thành Diệu Quang ở tại đâu? Người ấy đáp chính đây là thành Diệu Quang, là chỗ ngự của vua Đại Quang. Thiện Tài đồng tử hoan hỷ vô lượng nghĩ rằng: Thiện tri thức của tôi ở trong thành này. Nay tôi chắc sẽ được thân cận, được nghe công hạnh của chư Bồ-tát, được nghe môn xuất yếu của chư Bồ-tát, được nghe pháp của chư Bồ-tát đã chứng được, nghe công đức bất tư nghì của chư Bồ-tát, được nghe bất tư nghì tự tại của chư Bồ-tát, được nghe bình đẳng bất tư nghì của chư Bồ-tát, được nghe dũng mãnh bất tư nghì của chư Bồ-tát, được nghe cảnh giới quảng đại thanh tịnh bất tư nghì của chư Bồ-tát. Thiện Tài nghĩ như vậy rồi nhập Diệu Quang thành. Thấy thành này xây bằng thất bảo: Kim, ngân, lưu ly, pha lê, trân châu, xà cừ, mã não. Hào sâu bằng thất bảo bảy lớp bao quanh, nước bát công đức đầy trong đó; đáy trải cát chân kim, hoa sen bốn màu xanh vàng đỏ trắng nở đầy mặt nước. Cây đa-la báu bảy lớp thẳng hàng. Bảy thứ kim cang làm tường rào bao quanh. Những là tường bằng sư tử quang minh kim cang. Tường rào bằng vô năng siêu thắng kim cang. Tường rào bằng bất khả trở hoại kim cang. Tường rào bằng bất khả hủy khuyết kim cang. Tường rào bằng kiên cố vô ngại kim cang. Tường rào bằng thắng diệu võng tạng kim cang. Tường rào bằng ly trần thanh tịnh kim cang. Tất cả đều dùng vô số ma-ni diệu bảo xen lẫn trang nghiêm. Các thứ báu xây thành tháp gác. Thành đó ngang rộng mười do-tuần, có tám cửa đều dùng bảy báu nghiêm sức khắp nơi. Đất bằng tỳ-lưu-ly bảo, nhiều thứ trang nghiêm rất đáng mến thích. Trong thành có mười ức đường xá. Mỗi hai bên đường đều có vô lượng nhân dân ở. Có vô số lầu gác bằng vàng diêm-phù-đàn, lưới tỳ-lưu-ly ma-ni che phía trên. Vô số lầu gác bằng bạch ngân, lưới xích chân châu ma-ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng tỳ-lưu-ly, lưới diệu tạng ma-ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng pha lê, lưới vô cấu tạng ma-ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng quang chiếu thế gian ma-ni bảo, lưới nhật tạng ma-ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng đế thanh ma-ni bảo, lưới diệu quang ma-ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng chúng sanh hải ma-ni vương, lưới diệm quang ma-ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng kim cang bảo, lưới vô năng thắng tràng ma-ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng hắc chiên-đàn, lưới thiên mạn-đà-la hoa giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng vô đẳng hương vương, lưới nhiều thứ hoa giăng phía trên. Thành Diệu Quang còn có vô số lưới ma-ni, vô số lưới bảo linh, vô số lưới thiên hương, vô số lưới thiên hoa, vô số lưới bảo hình tượng, vô số lưới bảo y trướng, vô số bảo cái trướng, vô số bảo lâu các trướng, vô số bảo hoa man trướng giăng che. Khắp nơi kiến lập bảo cái tràng phan. Trong thành Diệu Quang có một lâu các tên là Chánh pháp tạng, trang nghiêm với vô số bảo vật, chói sáng rực rỡ không gì sánh bằng, nhìn xem không chán. Vua Đại Quang thường ở trong lầu này. Thiện Tài đồng tử đối với những vật trân bảo đẹp và các nam nữ, đến lục trần cảnh giới này đều không mến luyến. Chỉ nhất tâm chánh niệm tư duy pháp cứu cánh. Nhất tâm thích muốn được thấy thiện tri thức. Thiện Tài đi lần vào thành thấy vua Đại Quang ở giữa ngã tư đường, cách lầu Chánh pháp tạng không xa, ngồi trên tòa sư tử Quảng đại trang nghiêm như ý ma-ni bảo liên hoa tạng. Chân tòa này bằng lưu ly bảo màu biếc, lụa vàng làm màn, các báu làm lưới, thiên y thượng diệu làm nệm. Thân nhà vua có hai mươi tám tướng tốt, đủ tám mươi vẻ đẹp, như tòa núi chân kim, màu sắc và ánh sáng rực rỡ. Như mặt nhật trên không oai quang chói mắt. Như mặt trăng tròn làm mát mẻ người ngó thấy. Như Phạm thiên vương ở giữa Phạm chúng. Như đại hải công đức pháp bảo không cùng tận. Như núi Tuyết nghiêm sức với rừng cây tướng hảo. Như mây lớn hay chấn pháp lôi cảnh tỉnh mọi loài. Như hư không hiển hiện những pháp môn hình ngôi sao. Như núi Tu-di bốn màu hiện khắp trong tâm hải của chúng sanh. Như bảo đảo đầy những trí bảo. Trước tòa của vua ngự có từng khối vàng bạc, lưu ly, ma-ni, chân châu, san hô, hổ phách, kha bối, bích ngọc, y phục, anh lạc và những đồ ăn thức uống. Lại thấy vô lượng trăm ngàn muôn ức xe báu thượng diệu. Trăm ngàn muôn ức những kỹ nhạc cõi trời. Trăm ngàn muôn ức những hương thơm cõi trời. Trăm ngàn muôn ức thuốc men và đồ cần dùng. Vô lượng bò sữa, móng sừng màu chân kim. Vô lượng ngàn ức nữ nhân đoan chánh, chiên-đàn thượng diệu thoa trên thân, trang sức với thiên y anh lạc, đều giỏi rành sáu mươi bốn nghề, hiểu rõ thế tình, lễ phép, tùy theo tâm của chúng sanh mà cung cấp bố thí. Bốn bên ngã tư đường đều để đầy những đồ cần dùng. Mỗi bên có hai mươi ức Bồ-tát đem những vật này thí cho các chúng sanh. Vì muốn nhiếp khắp chúng sanh. Vì muốn cho chúng sanh hoan hỷ. Vì muốn cho chúng sanh hớn hở. Vì muốn cho chúng sanh tâm thanh tịnh. Vì muốn cho chúng sanh được thanh lương. Vì diệt trừ phiền não cho chúng sanh. Vì làm cho chúng sanh biết tất cả nghĩa lý. Vì làm cho chúng sanh nhập đạo Nhất thiết trí. Vì làm cho chúng sanh bỏ tâm oán thù. Vì làm cho chúng sanh lìa sự ác nơi thân ngữ. Vì làm cho chúng sanh dứt các tà kiến. Vì làm cho chúng sanh tịnh các nghiệp đạo. Đây diễn tả cảnh thành Diệu Quang và chỗ vua ở đều đẹp đẽ, để thấy rằng do nguyện lực mà được đầy đủ tất cả phước báu trang nghiêm. Thiện Tài đảnh lễ nơi chân vua Đại Quang, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay đứng tâu rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh hay khéo chỉ bảo, xin dạy cho. Vua nói: Này Thiện nam tử! Ta tịnh tu Bồ-tát đại từ tràng hạnh. Ta đầy đủ Bồ-tát đại từ tràng hạnh. Đại nguyện cứu độ tất cả chúng sanh là từ nơi tâm đại từ đại bi phát sanh, đó là mục tiêu chính yếu của hạnh này. Cho nên sau khi dẫn vào cho thấy thành rồi, vua Đại Quang liền nhập Từ tam-muội. Này Thiện nam tử! Ta ở chỗ vô lượng trăm ngàn muôn ức, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật hỏi han pháp này, tư duy quán sát tu tập trang nghiêm. Này Thiện nam tử! Ta dùng pháp này làm vua, dùng pháp này dạy bảo, dùng pháp này nhiếp thọ, dùng pháp này mà ở thế gian, dùng pháp này dẫn đạo chúng sanh, dùng pháp này khiến chúng sanh tu hành, dùng pháp này khiến chúng sanh hướng vào, dùng pháp này cho chúng sanh phương tiện, dùng pháp này khiến chúng sanh huân tập, dùng pháp này khiến chúng sanh khởi hạnh, dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ tư duy tự tánh của các pháp. Dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ từ tâm, lấy từ làm chủ, đầy đủ từ lực. Như vậy, khiến họ an trụ tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm ai mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ chúng sanh không bỏ rời, tâm cứu chúng sanh khổ không thôi nghỉ. Ta dùng pháp này làm cho chúng sanh rốt ráo khoái lạc, hằng tự vui thích, thân không khổ, tâm được mát mẻ, dứt ái nhiễm sanh tử, vui cái vui chánh pháp, rửa nhơ phiền não, phá chướng ác nghiệp, tuyệt dòng sanh tử, vào biển chân pháp, dứt sự thọ sanh trong các cõi, cầu Nhất thiết trí, tịnh những biển tâm, phát sanh đức tin bất hoại. Này Thiện nam tử! Ta đã an trụ nơi hạnh đại từ tràng này, có thể dùng chánh pháp giáo hóa thế gian. Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh trong quốc độ của ta, đối với ta, thảy đều không có sự kinh sợ. Này Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nghèo cùng khốn thiếu đến ta để cầu xin, ta mở cửa kho, cho họ tha hồ mà lấy. Ta bảo họ rằng: Chớ làm điều ác, chớ hại chúng sanh, chớ sanh tà kiến, chớ có chấp trước. Các ngươi có thiếu thốn thứ gì, cứ đến ta hoặc các ngã tư đường, có đủ tất cả vật dụng, tùy ý mà lấy khỏi phải nghi ngại. Này Thiện nam tử! Thành Diệu Quang này tất cả chúng sanh đều là Bồ-tát phát tâm Đại thừa, tùy ý muốn, nên chỗ thấy chẳng đồng. Hoặc có kẻ thấy thành này nhỏ hẹp. Có kẻ thấy thành này rộng lớn. Có kẻ thấy là đất cát. Có kẻ thấy là các báu trang nghiêm. Có kẻ thấy đắp đất làm tường rào. Có kẻ thấy tường bao quanh toàn bằng chất báu. Hoặc có kẻ thấy mặt đất đầy những ngói đá cao thấp. Có kẻ thấy là đại ma-ni bảo xen lẫn trang nghiêm bằng phẳng. Có kẻ thấy nhà cửa bằng gỗ đất. Có kẻ thấy là điện đường, lầu gác, thềm bậc, cửa nẻo đều bằng diệu bảo. Tùy theo tâm Bồ-tát hay phàm phu mà xem thấy thành này như thế nào. Nếu người được nhiếp độ từ trước thì đến đây thấy thành đẹp đẽ, còn những người chưa từng được giáo hóa thì đến đây thấy sơ sài không có gì tốt đẹp. Như vậy, thấy thành này nhỏ hẹp hay rộng lớn, thấy là đất cát hay trân bảo v.v... là tùy theo tâm lượng của mỗi người. Như chúng ta tới chắc thấy toàn là đất cát dơ xấu, không có gì tốt đẹp. Trong kinh thường nói “tâm bình thế giới bình”, tâm mình bình thì thế giới thảy đều bình. Đây là trọng tâm của sự tu tập. Bởi tâm chúng ta cao thấp nên cái thấy có sai biệt. Như cảnh mình đang ở, nếu người tu hành yên ổn, tâm được thanh tịnh thì thấy cảnh này nhẹ nhàng thanh thoát, nghe tiếng chuông trống như tấu nhạc trời. Còn người phiền não thì thấy như bị giam cầm trong tù ngục, nghe gì cũng buồn bực. Tất cả cái thấy sai biệt đó đều từ tâm của mỗi người mà ra. Tâm thanh tịnh nên cảnh thanh tịnh. Mỗi trưa ngồi nghe con chim gõ mõ gõ trên ngọn cây, tôi nghĩ đến cảnh Cực lạc, chim hót phát ra tiếng pháp, nào là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề v.v... Hiện tại tuy chúng ta chưa ở Cực lạc, nhưng nghe chim gõ mõ mà lòng nhẹ nhàng thanh tịnh, nghe gió thổi rung cây phát ra âm thanh như trổi nhạc cõi trời thì ngay đây cũng là Cực lạc. Vì tất cả đều gốc từ tâm mà ra. Tôi lấy thí dụ nhỏ của phàm phu chúng ta để biết tâm Bồ-tát khi đã thuần tịnh, các ngài nhìn sự vật khác hơn người tầm thường, nên có cái thấy sai khác. Này Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh tâm họ thanh tịnh, từng gieo trồng căn lành, cúng dường chư Phật, phát tâm xu hướng đạo Nhất thiết trí, lấy Nhất thiết trí làm chỗ cứu cánh và được ta thuở xưa lúc tu Bồ-tát hạnh từng nhiếp thọ họ, thì những chúng sanh này thấy thành đây bằng diệu bảo trang nghiêm. Ngoài ra, những kẻ khác lại thấy là thô xấu. Người có duyên đến thấy thành đẹp đẽ, người không có duyên thì thấy thô xấu. Như chỗ của chúng ta, người có duyên đến đây liền muốn ở, người không duyên đến thấy chán muốn đi. Nếu biết do duyên nghiệp của mỗi người khác nhau thì chúng ta không phiền trách ai, chê khen gì cũng phải. Bồ-tát cũng vậy, người nào có duyên cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành, được Phật nhiếp thọ thì đến nơi thấy thành đẹp đẽ, người không có duyên thấy thành thô xấu, tất cả đều do duyên không có gì lạ. Này Thiện nam tử! Trong quốc độ đây lúc đời ngũ trược, tất cả chúng sanh phần nhiều thích làm ác. Ta vì thương họ, muốn cứu độ họ mà nhập môn tam-muội Đại từ tùy thuận thế gian. Lúc ta nhập tam-muội này những chúng sanh làm ác kia, có những tâm bố úy, tâm não hại, tâm oán thù, tâm tranh luận, đều tiêu diệt tất cả. Tại sao vậy? Vì khi nhập tam-muội Đại từ tùy thuận thế gian thì công năng của tam-muội này tất nhiên là như vậy. Này Thiện nam tử! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy. Bấy giờ vua Đại Quang liền nhập tam-muội này. Cả thành Diệu Quang trong ngoài đều chấn động sáu cách. Những bảo địa, bảo tường, bảo đường, bảo điện, bảo đài quán, bảo lâu các, thềm bậc, cửa nẻo, tất cả đều phát ra tiếng diệu âm, đều hướng về phía vua Đại Quang. Trong thành Diệu Quang tất cả cư dân đồng thời vui mừng hớn hở, đều hướng về phía nhà vua mà gieo mình đảnh lễ. Tất cả nhân chúng trong thôn dinh thành ấp đều đến ra mắt vua, đều hoan hỷ kính lễ. Gần chỗ vua ở, những loài điểu thú đều yêu mến săn sóc nhau, đều có lòng mến kính nhà vua. Tất cả núi đồi và cây cỏ đều xoay hướng về phía nhà vua. Tất cả ao suối, sông biển thảy đều tràn nước chảy đến phía trước chỗ vua ngự. Có mười ngàn long vương nổi mây lớn thơm, phóng chớp nổ sấm, mưa rơi lất phất. Có mười ngàn thiên vương, như là Đao-lợi thiên vương, Dạ-ma thiên vương, Đâu-suất thiên vương, Thiện Biến Hóa thiên vương, Tha Hóa Tự Tại thiên vương v.v... ở trên hư không tấu nhạc. Vô số thiên nữ ca ngâm khen ngợi, mưa vô số mây thơm, vô số mây hoa, vô số mây tràng hoa, vô số mây bảo y, vô số mây bảo cái, vô số mây bảo tràng, vô số mây bảo phan, để trang nghiêm cúng dường nhà vua. Đại tượng vương Y-la-bà-noa dùng sức tự tại ở trên hư không rải vô số bảo liên hoa, thòng vô số bảo anh lạc, vô số bảo đới, vô số bảo man, vô số bảo trang nghiêm cụ, vô số bảo hoa, vô số bảo hương, các thứ kỳ diệu để nghiêm sức, vô số thể nữ ca ngâm khen ngợi. Trong Diêm-phù-đề lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức la-sát vương, dạ-xoa vương, cưu-bàn-trà vương, tỳ-xá-xà vương, hoặc ở đại hải, hoặc ở lục địa, uống huyết ăn thịt tàn hại chúng sanh, tất cả đều sanh từ tâm, nguyện làm lợi ích, biết rõ đời sau nên chẳng tạo điều ác, cung kính chắp tay đảnh lễ vua Đại Quang. Như Diêm-phù-đề, ba thiên hạ khác, nhẫn đến Đại thiên thế giới, trong mười phương bá thiên vạn ức na-do-tha thế giới, có bao nhiêu chúng sanh độc ác đều cũng phát từ tâm như vậy. Đoạn này nói về điệu dụng của Từ tam-muội. Chúng ta nghe diễn tả những điều khó tin, nhưng không phải là không có. Như trong thiền sử ghi lại, nhiều vị thiền sư ngồi tu trên núi, được chim hái hoa tới cúng dường. Các ngài ở trong thiền định mà cảm hóa được chim chóc cảm mến cúng dường, huống là Bồ-tát nhập đại từ tam-muội, trải lòng thương đến chúng sanh, tất nhiên chúng sanh được cảm ứng, cho nên tất cả cùng hướng về vua, đều bỏ tâm ác độc trở thành hiền từ. Thí dụ khi chúng ta nghe người nói xấu sau lưng mình, trong lòng tức giận trông gặp người đó để nói vài câu cho hả giận. Vừa gặp, mặt mình hầm hầm, mở miệng nói lời cay cú khiến người kia nổi nóng lên, thành gây gổ nhau. Nếu trong tâm chúng ta thư thái nhẹ nhàng thì nghe qua rồi thôi, không thấy tức giận. Hoặc có người phiền muộn đến, thấy mình đang vui vẻ họ cũng bớt buồn. Trong tâm nóng nảy bực tức, mở miệng ra làm người bực tức theo. Lòng an nhàn tự tại thì lời thốt ra dịu dàng, khiến người nghe cũng nhẹ nhàng. Sự thật rõ ràng như vậy, lòng mình thế nào thì cảm người xung quanh thế ấy, hoặc ảnh hưởng nhiều hoặc ảnh hưởng ít. Tuy nhiên cũng có người không ảnh hưởng được. Tại sao? Vì những người đó không có duyên. Bấy giờ vua Đại Quang xuất định bảo Thiện Tài rằng: Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn tam-muội Bồ-tát đại từ tùy thuận thế gian. Như chư đại Bồ-tát làm lọng cao, vì từ tâm che khắp các chúng sanh. Chuyên tu hành, vì những hạnh hạ trung thượng đều bình đẳng thực hành. Làm đại địa, vì có thể dùng từ tâm nhiệm trì tất cả những chúng sanh. Làm mặt trăng tròn, vì phước đức quang minh ở trong thế gian bình đẳng hiển hiện. Làm mặt nhật sáng, vì dùng trí quang minh chiếu diệu tất cả cảnh sở tri. Làm đèn sáng, vì có thể phá những hắc ám trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm thủy thanh châu, có thể lóng trong những chất đục siểm cuống trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm như ý bảo, vì có thể thỏa mãn tâm sở nguyện của tất cả chúng sanh. Làm đại phong, vì mau làm cho chúng sanh tu tập tam-muội nhập đại thành Nhất thiết trí. Ta làm sao biết được hạnh đó, nói được đức đó, làm sao cân lượng được núi lớn phước đức đó, làm sao chiêm ngưỡng được ngôi sao sáng công đức đó, làm sao quán sát được phong luân đại nguyện đó, làm sao vào được pháp môn thậm thâm đó, làm sao hiển thị được đại hải trang nghiêm đó, làm sao xiển minh được hạnh môn Phổ Hiền đó, làm sao khai thị được hang tam-muội, làm sao tán thán được mây đại bi đó. Tán thán công đức của Bồ-tát để khuyến khích đồng tử Thiện Tài cố gắng tham học tu tập thêm. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một vương đô tên là An Trụ, có ưu-bà-di tên là Bất Động. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân vua Đại Quang, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến đây nói về Thiện pháp hạnh, là hạnh thứ chín trong Thập hạnh. Hạnh này là hạnh tu chứng, pháp tu thuộc về Lực ba-la-mật, nên hình ảnh tượng trưng cho hạnh này là ưu-bà-di Bất Động, là một cư sĩ nữ. Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía nam, chánh niệm tư duy ý nghĩa của vua Đại Quang đã dạy, nhớ môn Bồ-tát đại từ tràng hạnh, tư duy môn Bồ-tát tùy thuận thế gian tam-muội quang minh. Tăng trưởng sức phước đức tự tại nguyện bất tư nghì đó. Kiên cố trí bất tư nghì thành tựu chúng sanh đó. Quán sát đại oai đức bất tư nghì bất cộng thọ dụng đó. Ghi nhớ tướng bất tư nghì sai biệt đó. Suy gẫm quyến thuộc thanh tịnh bất tư nghì đó. Suy xét công hạnh bất tư nghì đó mà sanh tâm hoan hỷ, tâm tịnh tín, tâm mãnh lợi, tâm hân duyệt, tâm dũng dước, tâm khánh hạnh, tâm vô trược uế, tâm thanh tịnh, tâm kiên cố, tâm quảng đại, tâm vô tận. Thiện Tài tư duy như vậy rồi buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thật là hy hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả Bồ-tát hạnh, xuất sanh tất cả Bồ-tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà-la-ni luân, xuất sanh tất cả tam-muội quang minh, xuất sanh tất cả chư Phật tri kiến, mưa khắp tất cả chư Phật pháp vũ, hiển thị tất cả Bồ-tát nguyện môn, xuất sanh nan tư trí tuệ quang minh, tăng trưởng gốc mầm tất cả Bồ-tát. Khi đồng tử Thiện Tài rời khỏi chỗ vua Đại Quang, ngài suy nghĩ về pháp tu ấy, chứng nhập được pháp tu ấy. Nghĩ thiện tri thức là bậc hy hữu, là chỗ xuất sanh các thứ công đức, nên buồn khóc rơi lệ. Do ngài bi cảm việc được thiện tri thức giáo hóa, chỉ dạy những phương pháp tu tập, vui sướng đến rơi nước mắt, chứ không phải buồn khóc theo phàm tình của thế gian. Như khi chúng ta xem kinh, cảm lời Phật dạy hay quá mình cũng rơi nước mắt. Đó gọi là bi cảm. Thiện Tài lại nghĩ rằng: Thiện tri thức có thể cứu hộ khắp tất cả ác đạo, có thể diễn thuyết khắp các pháp bình đẳng, có thể hiển thị khắp những đường bằng, đường hiểm, có thể khai xiển khắp áo nghĩa Đại thừa, có thể khắp khuyên phát những hạnh Phổ Hiền, có thể khắp dẫn đến thành Nhất thiết trí, có thể làm cho vào khắp pháp giới đại hải, có thể làm cho thấy khắp tam thế pháp hải, có thể khắp trao cho chúng thánh đạo tràng, có thể khắp tăng trưởng tất cả bạch pháp. Lúc Thiện Tài bi ai tư niệm như vậy, đức Như Lai khiến thiên vương hiện trên hư không bảo rằng: Này Thiện nam tử! Có ai tu hành đúng lời dạy của thiện tri thức, chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỷ. Có ai tùy thuận theo lời của thiện tri thức thì được gần bậc Nhất thiết trí. Có ai đối với lời của thiện tri thức không nghi hoặc thì thường gặp gỡ tất cả thiện hữu. Có ai phát tâm nguyện thường chẳng rời thiện tri thức thì được đầy đủ tất cả nghĩa lợi. Đồng tử Thiện Tài bi cảm về pháp như vậy, nên được đức Phật khiến cho thiên vương hiện trong hư không nói lời khuyến khích. Chúng ta bây giờ cách Phật hơn hai ngàn năm trăm năm, tuy không còn thấy Phật nhưng những âm vang của Phật chúng ta vẫn được nghe. Nếu nghe rồi thực hành đúng theo lời Phật dạy, chắc chắn sẽ được gặp Phật, thấy Phật và gần Phật. Vì ai tu hành đúng theo lời dạy của thiện tri thức thì chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỷ. Sở dĩ chúng ta không thấy Phật, không được gặp Phật là vì nghe Phật dạy mà không làm theo. Phật dạy một đường mình làm một ngả, cho nên Phật pháp suy đồi. Chư Phật dạy bảo tiến tu, thầy bạn khuyên răn lời hay lẽ phải, nhưng lơ là không thực hành theo. Nhắc thì nhớ, không nhắc thì quên. Vì vậy càng ngày cách Phật càng xa, Nếu người tu có được sự khuyến khích, biết phát tâm nguyện chẳng rời thiện tri thức thì chắc chắn sẽ được lợi ích lớn. Này Thiện nam tử! Ngươi nên đến Vương đô An Trụ sẽ được gặp Bất Động ưu-bà-di đại thiện tri thức. Thiện Tài từ tam-muội trí quang minh dậy, đi lần đến thành An Trụ tìm hỏi Bất Động ưu-bà-di. Đại chúng bảo rằng Bất Động ưu-bà-di là đồng nữ ở nhà với cha mẹ, cùng với quyến thuộc vô lượng nhân chúng diễn nói diệu pháp. Thiện Tài nghe nói lòng rất hoan hỷ như được gặp cha mẹ, liền đến nhà Bất Động ưu-bà-di. Đồng tử Thiện Tài được khuyên nên đi đến thành An Trụ, gặp ưu-bà-di Bất Động. An trụ là không có gì làm cho chướng ngại. Bất động là không dao động. Đến chỗ này, nếu không mạnh mẽ, không có đạo lực dũng mãnh thì đối với các pháp tà ngoại, những thứ phiền não chướng, làm sao an trụ không dao động. Lực ba-la-mật chính là sức mạnh làm cho an ổn bất động. Tên thành và tên người đã nói lên đầy đủ ý nghĩa đó. Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chân kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thì thân tâm mát mẻ. Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam-muội. Như là môn tam-muội rõ tất cả tướng hy hữu, môn tam-muội nhập tịch tịnh, môn tam-muội xa lìa tất cả thế gian, môn tam-muội phổ nhãn xả đắc, môn tam muội Như Lai tạng v.v... Do được năm trăm môn tam-muội nên thân tâm nhu nhuyến như thai bảy ngày. Lại nghe mùi hương, cõi trời, cõi người không có được. Thiện Tài đến chỗ Ưu-bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu-bà-di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhân trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ đức Như Lai và chư quán đảnh Bồ-tát. Miệng Ưu-bà-di phát ra diệu hương. Cung điện rất trang nghiêm và quyến thuộc của Ưu-bà-di này không đâu sánh bằng. Tất cả chúng sanh không ai sanh tâm nhiễm trước đối với Ưu-bà-di này. Nếu ai được tạm thời thấy Ưu-bà-di này thì tất cả phiền não thảy đều tự tiêu diệt, ví như trăm ngàn Đại Phạm thiên vương, quyết định chẳng sanh phiền não cõi Dục. Thập phương chúng sanh nhìn xem Ưu-bà-di này đều không nhàm chán, chỉ trừ bậc đầy đủ đại trí tuệ. Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình Bất Động ưu-bà-di tự tại bất tư nghì, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp. Quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn được, vì khắp chúng sanh mà làm lợi ích. Lỗ lông nơi thân Ưu-bà-di thường phát ra diệu hương. Quyến thuộc vô biên, cung điện đệ nhất, công đức vô lượng không ngằn mé. Thiện Tài vui mừng hớn hở nói kệ tán thán: Giữ gìn giới thanh tịnh Tu hành nhẫn rộng lớn Tinh tấn chẳng thối chuyển Quang minh chiếu thế gian. Người giữ giới thanh tịnh, nhẫn nhục rộng lớn, tinh tấn không thối chuyển, đó là hào quang chiếu sáng thế gian. Nói kệ xong, Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo chỉ bảo, xin dạy cho. Bất Động ưu-bà-di dùng lời nhu nhuyến duyệt ý của Bồ-tát an ủi Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử đã phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Bồ-tát nan tồi phục trí tuệ tạng. Ta được Bồ-tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được Bồ-tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được Bồ-tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được Bồ-tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam-muội môn. Bồ-tát nan tồi phục trí tuệ tạng, tức là kho tàng trí tuệ của Bồ-tát không ai tồi phục được. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh giới của Bồ-tát nan tồi phục trí tuệ tạng giải thoát môn, nhẫn đến cảnh giới của Bồ-tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam-muội môn như thế nào? Bất Động đồng nữ nói: Này Thiện nam tử! Chỗ này khó biết. Thiện Tài thưa: Mong đức Thánh thừa Phật thần lực giảng giải cho. Tôi sẽ nhân thiện tri thức mà tin được, thọ được, biết được, rõ được, có thể hướng vào, quán sát, tu tập, tùy thuận, rời các phân biệt rốt ráo bình đẳng. Bất Động nói: Này Thiện nam tử! Quá khứ có một kiếp tên là Ly Cấu, Phật hiệu Tu Tý. Thuở đó có quốc vương tên là Điển Thọ chỉ sanh một gái, chính là tiền thân của ta. Một đêm khuya kia, lúc dẹp âm nhạc, vương phụ, vương mẫu, vương huynh, vương đệ và năm trăm đồng nữ đều đã ngủ. Công nương ở trên lầu ngước xem tinh tú, ở trong hư không thấy đức Tu Tý Như Lai như tòa bảo sơn, hai bên có vô lượng vô biên thiên long, bát bộ và chúng Bồ-tát hầu hạ. Thân Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Toàn thân Phật, các lỗ lông đều phát diệu hương. Công nương nghe diệu hương của Phật, thân thể nhu nhuyến, lòng hoan hỷ, bèn xuống lầu đứng trên đất, chắp mười ngón tay đảnh lễ đức Phật. Công nương lại quán sát vô kiến đảnh tướng của đức Phật, thấy thân Phật phía tả, phía hữu không biết được ngằn mé. Tư duy các tướng tùy hảo của Phật không nhàm chán. Tự nghĩ thầm: Đức Phật Thế Tôn đây thực hành công hạnh gì mà được thân tướng tốt đẹp viên mãn quang minh đầy đủ, quyến thuộc thành tựu, cung điện trang nghiêm tốt đẹp, phước đức trí tuệ thảy đều thanh tịnh, tổng trì tam-muội chẳng thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, biện tài vô ngại. Khi ấy đức Phật biết tâm niệm của công nương nên bảo rằng: Ngươi nên phát tâm bất khả hoại, diệt các phiền não. Nên phát tâm vô năng thắng, phá các chấp trước. Nên phát tâm không thối khiếp, nhập các pháp môn. Nên phát tâm nhẫn nại, cứu chúng sanh ác. Nên phát tâm không mê hoặc, thọ sanh khắp các loài. Nên phát tâm không nhàm đủ, cầu thấy chư Phật không thôi ngớt. Nên phát tâm không biết đủ, lãnh thọ tất cả pháp vũ của Như Lai. Nên phát tâm chánh tư duy, sanh khắp tất cả Phật pháp quang minh. Nên phát tâm đại trụ trì, chuyển khắp tất cả pháp luân của chư Phật. Nên phát tâm rộng lưu thông, tùy sở thích của chúng sanh mà ban cho pháp bảo. Công nương nghe Phật dạy những pháp như vậy, liền phát tâm cầu Nhất thiết trí, cầu Phật thập lực, cầu Phật biện tài, cầu Phật quang minh, cầu Phật sắc thân, cầu Phật tướng hảo, cầu Phật chúng hội, cầu Phật quốc độ, cầu Phật oai nghi, cầu Phật thọ mạng. Tâm của công nương như kim cang, tất cả phiền não nhẫn đến Nhị thừa đều không phá hoại được. Ưu-bà-di Bất Động kể lại chuyện tiền thân phát tâm, đức Như Lai chỉ dạy cho phương pháp tu tiến, trải qua không biết bao nhiêu kiếp nên nay mới được như vậy. Này Thiện nam tử! Từ đời làm công nương phát tâm như vậy đến nay, trải qua Diêm-phù-đề vi trần số kiếp, ta còn chẳng móng một tâm niệm ái dục, huống là làm việc ấy. Trong những kiếp ấy đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận, huống là với chúng sanh khác. Tại sao nói đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận, huống là với chúng sanh khác? Bởi vì theo tâm lý thông thường, nhịn người ngoài dễ, nhịn anh em khó. Anh em ra vô gặp mặt hoài, người bổn phận này người bổn phận kia nên khó nhịn. Người ngoài nói rồi thôi, nhịn họ một chút cho qua, ai về nhà nấy. Vì vậy đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận là khó, việc khó mà làm được thì đối với chúng sanh khác đâu có nghĩa lý gì. Trong những kiếp ấy, đối với tự thân không có một niệm ngã kiến, huống là có niệm ngã sở đối với đồ vật. Ngã kiến là gốc mà không còn một niệm chấp, huống là những thứ ngã sở ở bên ngoài. Từ những kiếp ấy, lúc chết, lúc sanh và lúc ở trong bào thai chưa từng mê muội sanh trưởng chúng sanh và tâm vô ký, huống là những lúc khác. Trong những kiếp đó, tùy thấy một đức Phật nào chưa từng quên mất, huống là Bồ-tát thập nhãn ngó thấy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai chánh pháp chưa từng quên sót một chữ một câu, nhẫn đến tất cả ngôn từ của thế tục còn chẳng quên mất, huống là lời từ kim khẩu của đức Như Lai. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai pháp hải, không một câu một chữ nào mà chẳng tư duy quán sát, nhẫn đến tất cả pháp thế tục cũng như vậy. Trong những kiếp ấy thọ trì tất cả pháp hải như vậy, chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam-muội, nhẫn đến những kỹ thuật thế gian, mỗi mỗi pháp cũng đều như vậy. Trong những kiếp ấy, trụ trì tất cả Như Lai pháp luân, tùy pháp đã trụ trì chưa từng bỏ một chữ một câu, nhẫn đến chưa sanh thế trí, chỉ trừ khi vì muốn điều phục chúng sanh. Trong những kiếp ấy, thấy chư Phật hải chưa từng ở chỗ một đức Phật nào mà chẳng thành tựu đại nguyện thanh tịnh, nhẫn đến ở chỗ hóa Phật cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thấy chư Bồ-tát tu hành diệu hạnh không có một hạnh nào mà chẳng thành tựu. Trong những kiếp ấy, có bao nhiêu chúng sanh, không có một chúng sanh nào mà ta chẳng khuyên phát tâm vô thượng Bồ-đề, chưa từng khuyên ai phát tâm Thanh văn, Bích-chi Phật. Trong những kiếp ấy, nơi tất cả Phật pháp, nhẫn đến chẳng nghi hoặc một câu một chữ. Cũng chẳng có tưởng sai khác, chẳng có tưởng phân biệt, chẳng có các thứ tưởng, chẳng có tưởng chấp trước, chẳng có tưởng thắng liệt, chẳng có tưởng yêu ghét. Này Thiện nam tử! Từ ấy đến nay, ta thường thấy chư Phật, thường thấy Bồ-tát, thường thấy chân thiện tri thức, thường nghe chư Phật nguyện, thường nghe Bồ-tát hạnh, thường nghe Bồ-tát ba-la-mật môn, thường nghe Bồ-tát địa trí quang minh môn, thường nghe Bồ-tát vô tận tạng môn, thường nghe nhập vô biên thế giới võng môn, thường nghe xuất sanh vô biên chúng sanh giới nhân môn. Thường dùng trí tuệ quang minh thanh tịnh diệt trừ tất cả chúng sanh phiền não. Thường dùng trí tuệ sanh trưởng tất cả chúng sanh thiện căn. Thường tùy chúng sanh sở thích mà hiện thân. Thường dùng ngôn âm thượng diệu thanh tịnh khai ngộ pháp giới tất cả chúng sanh. Đoạn này ưu-bà-di Bất Động nói lên sở đắc của mình. Này Thiện nam tử! Ta được Bồ-tát cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm môn. Ta được nhất thiết pháp tổng trì môn hiện bất tư nghì tự tại thần biến. Ngươi muốn thấy chăng? Thiện Tài thưa: Vâng! Bạch đức Thánh! Tôi muốn được thấy. Lúc đó Bất Động ưu-bà-di ngồi trên tòa long tạng sư tử, nhập cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm tam-muội môn, bất không luân trang nghiêm tam-muội môn, thập lực trí luân hiện tiền tam-muội môn, Phật chủng vô tận tạng tam-muội môn... nhập một vạn tam-muội môn như vậy. Lúc Ưu-bà-di nhập tam-muội môn này, mười phương đều có bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới chấn động sáu cách, đều bằng lưu ly, đều thanh tịnh. Trong mỗi mỗi thế giới có trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức Như Lai, hoặc trụ Đâu-suất thiên, nhẫn đến nhập Niết-bàn, mỗi mỗi Như Lai phóng quang minh võng chiếu khắp pháp giới, đạo tràng chúng hội thanh tịnh vây quanh chuyển diệu pháp luân khai ngộ quần sanh. Khi nhập tam-muội như vậy, ưu-bà-di Bất Động thấy bao nhiêu thế giới không thể kể hết, từ lúc Phật sơ sanh cho đến thành đạo, phóng hào quang sáng chiếu khắp quần sanh… Tất cả cõi Phật nhiều như số vi trần đó, bà đều thấy biết rõ ràng. Bất Động ưu-bà-di xuất tam-muội, hỏi Thiện Tài: Ngươi có thấy chăng? Thiện Tài thưa: Vâng! Tôi đã thấy. Bất Động ưu-bà-di nói: Ta chỉ được Cầu nhất thiết pháp vô yểm túc tam-muội quang minh này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp, đều làm cho hoan hỷ. Như chư đại Bồ-tát du hành hư không vô ngại, như kim sí điểu có thể vào tất cả chúng sanh đại hải, thấy có ai thiện căn đã thành thục liền bắt lấy để trên bờ Bồ-đề. Lại như thương gia vào đại bảo đảo lượm lấy Như Lai thập lực trí bảo. Lại như nhà chài lưới cầm lưới chánh pháp vào biển sanh tử, ở trong nước ái lược bắt chúng sanh. Như a-tu-la vương có thể khuấy động khắp tam hữu đại thành những biển phiền não. Lại như mặt nhật xuất hiện hư không, chiếu nước ái dơ làm cho khô cạn. Lại như mặt trăng tròn xuất hiện hư không, làm cho người đáng hóa độ tâm hoa được khai nở. Lại như đại địa đều bình đẳng với tất cả, tất cả chúng sanh nương ở nơi đó được tăng trưởng gốc mầm, tất cả pháp lành. Lại như đại phong thổi vô ngại, có thể nhổ trốc tất cả cây lớn kiến chấp. Như chuyển luân vương du hành thế gian, dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh. Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy. Đoạn này nói về lực dụng mạnh mẽ của ưu-bà-di Bất Động. Như kim sí điểu bay lên hư không, thấy rồng ở đâu thì xuống bắt liền. Cũng vậy, nếu thấy ai có thiện căn bà đều nắm họ bỏ trên tòa Bồ-đề. Dùng đại lực dụng ấy mà làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, công hạnh ấy không thể kể hết được. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một đại thành tên là Vô Lượng Đô-tát-la. Trong thành đó có một xuất gia ngoại đạo tên là Biến Hành. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bất Động ưu-bà-di, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi. Đây đến Chân thật hạnh, là hạnh thứ mười trong Thập hạnh. Pháp tu này thuộc về Trí ba-la-mật. Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi Bất Động ưu-bà-di rồi, chuyên tâm nghĩ nhớ lời dạy bảo thảy đều tin thọ tư duy quán sát, đi lần đến thành Đô-tát-la. Lúc vào thành mặt trời đã lặn, Thiện Tài đi khắp phố phường, làng xóm tìm Biến Hành. Đoạn này tả cảnh đồng tử Thiện Tài đến thành vào buổi chiều mặt trời lặn, đi khắp hết các phố phường cho đến ngã tư đường mà không tìm được Biến Hành. Thành đông có núi tên là Thiện Đức. Giữa đêm Thiện Tài thấy đỉnh núi ấy, cỏ cây gộp đá đều sáng chói như mặt trời mới mọc. Thiện Tài mừng rỡ nghĩ rằng: Tôi chắc được gặp thiện tri thức nơi núi ấy. Thiện Tài liền ra khỏi thành lên núi ấy, thấy Biến Hành ngoại đạo đi kinh hành chậm rãi nơi khoảng đất bằng trên núi. Dung sắc viên mãn, oai quang chiếu sáng hơn cả Đại Phạm thiên vương. Có mười ngàn trời Phạm chúng vây quanh. Biến Hành có hai ý: Một là vì trí tuệ ấy trùm khắp không bị ngăn trở, không gì che lấp được. Hai là vì trí tuệ ấy khắp làm lợi ích tất cả chúng sanh. Phương pháp tu này thuộc về Trí ba-la-mật, nên trong đây diễn tả khi Thiện Tài đến thành này thì thấy mặt trời lặn. Mặt trời lặn chỉ cho đêm tối, đêm tối là phiền não vô minh. Giữa đêm nhìn lên trên núi thấy sáng rỡ như mặt trời mọc, chỉ cho trí tuệ soi sáng vô minh phiền não mờ tối. Biến Hành ở trên ngọn núi đi kinh hành nơi chỗ đất bằng. Ngọn núi là trí tuệ. Đất bằng là từ bi bình đẳng. Nghĩa là tu trí tuệ nhưng không rời từ bi bình đẳng. Tại sao gọi Biến Hành là ngoại đạo? Bởi đến đây là Chân thật hạnh, nên đối với tất cả tà giáo ngoại đạo không còn thấy riêng biệt, tất cả đều quy về chỗ chân thật. Thiện Tài đến đảnh lễ nơi chân Biến Hành, hữu nhiều vô lượng vòng chắp tay cung kính thưa: Bạch đức Thành! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì tôi mà giảng nói. Biến Hành nói: Lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử! Ta đã an trụ Chí nhất thiết xứ Bồ-tát hạnh, đã thành tựu Phổ quán thế gian tam-muội môn, đã thành tựu Vô y vô tác thần thông lực, đã thành tựu Phổ môn Bát-nhã ba-la-mật. Này Thiện nam tử! Ta ở khắp nơi trong thế gian, những hình mạo, những hạnh giải, những sự chết sống trong tất cả các loài: Loài trời, loài rồng, loài dạ-xoa, loài càn-thát-bà, loài a-tu-la, loài ca-lâu-la, loài khẩn-na-la, loài ma-hầu-la-già, địa ngục, súc sanh, Diêm-la vương, loài phi nhân, loài người. Tất cả các loài hoặc trụ kiến chấp, hoặc tin Nhị thừa, hoặc có kẻ tin ưa đạo Đại thừa. Trong tất cả chúng sanh như vậy, ta dùng những phương tiện, những trí môn mà làm lợi ích cho họ. Như là: Hoặc vì họ mà diễn nói tất cả kỹ nghệ thế gian, cho họ được đầy đủ trí đà-la-ni tất cả xảo thuật. Hoặc vì họ mà diễn nói phương tiện tứ nhiếp, cho họ đầy đủ đạo Nhất thiết trí. Hoặc vì họ mà diễn nói các môn ba-la-mật, cho họ hồi hướng về Nhất thiết trí. Hoặc vì họ mà tán dương tâm đại Bồ-đề, cho họ chẳng mất tâm Vô thượng đạo. Hoặc vì họ mà tán dương những hạnh Bồ-tát, cho họ được hoàn mãn nguyện cứu chúng sanh tịnh Phật độ. Hoặc vì họ mà diễn nói hễ tạo nghiệp ác thì bị những khổ báo địa ngục v.v... cho họ nhàm lìa những ác nghiệp. Hoặc vì họ mà diễn nói cúng dường chư Phật trồng các căn lành thì quyết định được quả Nhất thiết trí, cho họ phát sanh tâm hoan hỷ. Hoặc vì họ mà diễn nói những công đức của Như Lai Đẳng chánh giác, cho họ thích thân Phật cầu Nhất thiết trí. Hoặc vì họ mà diễn nói oai đức của chư Phật, cho họ ưa thích thân bất hoại của Phật. Hoặc vì họ mà diễn nói thân tự tại của Phật, cho họ cầu thân đại oai đức của Như Lai. Tất cả những việc làm này để nói lên công hạnh của ngoại đạo Biến Hành. Vì dẹp phá tất cả những kiến chấp tà giáo, ngoại đạo, diễn nói Phật pháp làm cho được lợi ích mà trở về đạo đức chân thật. Lại này Thiện nam tử! Trong thành Đô-tát-la này khắp mọi nơi, tất cả tộc loại, trong nhân chúng hoặc nam, hoặc nữ, ta đều dùng phương tiện thị hiện đồng thân hình như họ, để tùy cơ nghi mà thuyết pháp độ họ. Chúng nhân ấy đều chẳng biết ta là ai, từ đâu đến, chỉ làm cho người nghe như thật tu hành. Này Thiện nam tử! Như sự làm lợi ích chúng sanh trong thành này, khắp cõi Diêm-phù-đề, những thành ấp tụ lạc chỗ có người ở, ta cũng đều làm lợi ích cho mọi người như vậy. Đây là ý nghĩa thứ hai của Biến Hành, như trước đã nói. Dùng trí tuệ phương tiện hiện khắp mọi nơi, tuỳ cơ nghi nói pháp làm lợi ích tất cả chúng sanh mà không trụ, không để họ biết chỗ nơi của mình, chỉ khiến người nghe tu hành đúng như thật. Này Thiện nam tử! Trong Diêm-phù-đề có chín mươi sáu loại chúng đều sanh kiến chấp khác nhau. Ở trong những chúng đó, ta dùng phương tiện điều phục cho họ bỏ lìa những kiến chấp. Như ở Diêm-phù-đề, ba thiên hạ kia cũng vậy. Như tứ thiên hạ, khắp Đại thiên thế giới cũng vậy. Cho đến chúng sanh hải trong vô lượng thế giới ở mười phương, ta đều ở trong đó tùy tâm sở thích của chúng sanh, dùng những phương tiện, những pháp môn mà hiện những sắc thân, dùng các thứ ngôn âm mà vì họ thuyết pháp cho họ được lợi ích. Này Thiện nam tử. Ta chỉ biết Chí nhất thiết xứ Bồ-tát hạnh này. Như chư đại Bồ-tát, thân cùng đồng với số chúng sanh, được cùng chúng sanh không thân sai khác, dùng thân biến hóa vào khắp các loài, nơi tất cả xứ đều hiện thọ sanh, hiện ở khắp chỗ chúng sanh thanh tịnh quang minh soi sáng thế gian, dùng vô ngại nguyện trụ tất cả kiếp, được những hạnh vô đẳng như đế võng, thường siêng lợi ích tất cả chúng sanh, hằng ở chung với họ mà không chấp trước, khắp tam thế thảy đều bình đẳng, dùng trí vô ngã soi khắp mọi nơi, dùng đại bi tạng quán sát tất cả... Ta không thể nào biết được nói được những công đức hạnh đó. Chẳng những trong một thành mà cả Diêm-phù-đề, cho đến Tam thiên đại thiên, mười phương vô lượng thế giới cũng đều khắp làm lợi ích chúng sanh, chứ không riêng ở một nơi nào. Ý nghĩa Biến Hành là vậy. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Quảng Đại, nơi đó có trưởng giả buôn hương tên là Ưu-bát-la-hoa. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát làm thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến đây là đã viên mãn Thập hạnh. Thập trụ qua Thập hạnh có hai mươi vị thiện tri thức, đến vị thiện tri thức thứ hai mươi mốt là qua Thập hồi hướng. Thập trụ và Thập hạnh nặng về phần giải thoát hơn độ sanh. Thập hồi hướng là hướng những khả năng siêu xuất giải thoát của mình trở lại nhập thế độ sanh. Các ngài thị hiện ở thế tục mà không nhiễm tục. Phần thứ nhất của Thập hồi hướng là Cứu hộ nhất thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng, nghĩa là cứu hộ tất cả chúng sanh mà lìa tướng chúng sanh. Pháp tu thuộc về Bố thí ba-la-mật. Nhờ thiện tri thức dạy bảo, Thiện Tài chẳng đối thân mạng, chẳng ham của báu, chẳng thích nhân chúng, chẳng mê ngũ dục, chẳng luyến quyền thuộc, chẳng trọng ngôi vua. Chỉ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chỉ nguyện nghiêm tịnh tất cả Phật độ, chỉ nguyện cúng dường tất cả chư Phật, chỉ nguyện chứng biết thật tánh của các pháp, chỉ nguyện tu tập biển công đức lớn của tất cả Bồ-tát, chỉ nguyện tu hành tất cả công đức trọn không thối chuyển, chỉ nguyện hằng ở trong tất cả kiếp dùng đại nguyện lực tu Bồ-tát hạnh, chỉ nguyện vào khắp tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, chỉ nguyện nhập một môn tam-muội mà hiện khắp tất cả môn tam-muội tự tại thần lực, chỉ nguyện ở trong một lỗ lông của Phật thấy tất cả Phật tâm không nhàm đủ, chỉ nguyện được tất cả pháp trí tuệ quang minh có thể thọ trì pháp tạng của chư Phật. Nhờ thiện tri thức chỉ dạy nên không còn bị những dục lạc thế gian cám dỗ, chỉ một bề chuyên tâm hướng về cầu Phật đạo làm lợi ích cho chúng sanh. Thiện Tài chuyên cầu công đức của tất cả chư Phật và Bồ-tát như vậy, đi lần qua thành Quảng Đại, đến chỗ trưởng giả Ưu-bát-la-hoa, đảnh lễ chân trưởng giả hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề muốn cầu trí tuệ bình đẳng của tất cả Phật. Muốn đủ vô lượng đại nguyện của tất cả Phật. Muốn tịnh sắc thân tối thượng của tất cả Phật. Muốn thấy pháp thân thanh tịnh của tất cả Phật. Muốn biết trí thân quảng đại của tất cả Phật. Muốn tịnh trị những hạnh của tất cả Bồ-tát. Muốn chiếu sáng tam-muội của tất cả Bồ-tát. Muốn an trụ tổng trì của tất cả Bồ-tát. Muốn diệt trừ tất cả chướng ngại. Muốn du hành tất cả thế giới mười phương... nhưng tôi chưa biết thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo, để có thể xuất sanh Nhất thiết chủng trí. Phát tâm hồi hướng là phát tâm quảng đại, từ chỗ thật chứng giải thoát hướng về chúng sanh để độ khắp chúng sanh, vì vậy thành này có tên Quảng Đại. Trưởng giả Ưu-bát-la-hoa là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thanh Liên Hoa, tức là hoa sen xanh. Tại sao trưởng giả này tên là Hoa sen xanh? Bởi vì theo quan niệm của Đại thừa, Bồ-tát ở trong trần tục làm lợi ích chúng sanh mà tâm vẫn giải thoát, như hoa sen ở trong bùn nhơ mà vẫn thanh khiết. Trưởng giả nói: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta khéo biết rõ tất cả những thứ hương, cũng biết phương pháp điều hợp tất cả thứ hương. Tất cả thứ hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả hương bột. Ta cũng biết chỗ xuất sanh tất cả thứ hương như vậy. Pháp tu của Trưởng giả là điều hợp các thứ hương và biết rõ căn cội của các thứ hương. Như trước đã nói, hạnh này là hạnh bố thí nên điều hợp các thứ hương là Bố thí pháp. Bồ-tát ở trong thế gian đem chánh pháp diễn hóa tâm chúng sanh, khiến họ dứt trừ phiền não, chuyển tất cả tâm niệm ô nhiễm trở thành Ngũ phần pháp thân hương. Biết rành rẽ các thứ hương, nghĩa là biết tận căn gốc phiền não cho đến tu hành giải thoát của mỗi chúng sanh. Người nào có nhân chủng lành gì, những đời trước gieo duyên tu hành gì... các ngài đều biết rõ rồi tùy theo đó mà chuyển hóa họ. Trong đây nói ba thứ hương là hương đốt, hương thoa và hương bột. Hương đốt tượng trưng cho sự chuyển hóa, dùng bố thí pháp để chuyển hóa chúng sanh, thiêu sạch hết phiền não. Hương thoa là đem bố thí pháp để an ủi chúng sanh. Hương bột là lấy bố thí pháp để nghiền nát kiến chấp, dẹp tan mê lầm cho chúng sanh. Ta lại khéo biết thiên hương, long hương, dạ-xoa hương, càn-thát-bà hương, a-tu-la hương, ca-lâu-la hương, khẩn-na-la hương, ma-hầu-la-già hương, nhân hương, phi nhân hương. Ta lại khéo biết các thứ hương trị bệnh; như là hương dứt ác, hương sanh hoan hỷ, hương thêm phiền não, hương diệt phiền não, hương làm cho ở nơi pháp hữu vi sanh ưa mến, hương làm cho sanh lòng nhàm lìa pháp hữu vi, hương bỏ những kiêu mạn phóng dật, hương phát tâm niệm Phật, hương chứng hiểu pháp môn, hương thánh thọ dụng, hương tất cả Bồ-tát sai biệt, hương tất cả địa vị Bồ-tát. Các thứ hương như vậy, hình tướng sanh khởi, xuất hiện thành tựu cảnh giới phương tiện thanh tịnh an ổn, oai đức nghiệp dụng và cùng căn bổn, ta đều biết rõ cả. Bồ-tát biết hết căn cội của các thứ hương xuất phát từ đâu, biết pháp nào trị bệnh nào, gốc gì sanh phiền não, dùng cái gì diệt trừ… từ đó làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Này Thiện nam tử! Ở nhân gian có thứ hương tên là Tượng tạng, nhân nơi rồng đấu nhau mà sanh. Nếu đốt một hoàn, liền nổi mây hương che trùm vương đô, trong bảy ngày mưa thơm lất phất. Nếu đeo trên thân thì thân thành màu chân kim. Nếu giắt trong y phục, cung điện, lầu gác, cũng đều màu chân kim. Nếu gió thổi vào trong cung điện, chúng sanh ngửi được thì trọn bảy ngày đêm hoan hỷ thơ thới, khoái lạc không bệnh, chẳng xâm hại nhau, lìa các ưu khổ, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng loạn, chẳng giận, thương mến nhau, chí ý thanh tịnh. Ta biết như vậy rồi bèn vì họ mà thuyết pháp, cho họ quyết định phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Núi Ma-la-gia xuất sanh chiên-đàn hương tên là Ngưu đầu. Nếu dùng hương này thoa trên thân, thì dầu vào hầm lửa cũng chẳng bị cháy. Này Thiện nam tử! Trong biển có hương tên là Vô năng thắng, nếu đem thoa lên trống và các loa ốc, lúc phát tiếng lên thì tất cả quân địch đều tự thối tán. Này Thiện nam tử! Ở bên ao A-nậu-đạt xuất sanh trầm thủy hương tên là Liên hoa tạng, nếu đốt chừng bằng hạt mè, thì hơi hương lan khắp Diêm-phù-đề, chúng sanh hương này thời lìa tất cả tội, giới phẩm thanh tịnh. Này Thiện nam tử! Núi Tuyết có hương tên là A-lô-na, nếu có chúng sanh ngửi hương này, thời tâm họ quyết định lìa những liễm trước, ta vì họ mà thuyết pháp, tất cả đều được ly cấu tam-muội. Này Thiện nam tử! Trong cõi La-sát có thứ hương tên là Hải tạng, hương này chỉ có Chuyển luân vương được dùng. Nếu đốt một viên hương này để xông, thời vương và bổn bộ binh đều bay đi trên không. Này Thiện nam tử! Trong trời Thiện Pháp có thứ hương tên là Tịnh trang nghiêm, nếu đốt lên một viên liền khiến khắp chư thiên đều niệm Phật. Này Thiện nam tử! Trời Dạ-ma có thứ hương tên là Tịnh tạng, nếu đốt lên một viên thời tất cả trời Dạ-ma đều vân tập đến chỗ Dạ-ma thiên vương để nghe pháp. Này Thiện nam tử! Trong trời Đâu-suất có thứ hương tên là Tiên-đà-bà, nếu đốt lên một viên trước chỗ ngồi của đức Nhất sanh bổ xứ Bồ-tát thời nổi mây hương lớn khắp pháp giới, khắp mưa tất cả những đồ cúng dường để cúng dường tất cả chư Phật, Bồ-tát. Này Thiện nam tử! Cõi trời Thiện Biến Hóa có thứ hương tên là Đoạt ý, nếu đốt lên một viên thời trong bảy ngày khắp mưa tất cả những đồ trang nghiêm. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết phương pháp điều hòa các thứ hương đây. Như chư đại Bồ-tát xa lìa tất cả tập khí của các pháp, chẳng nhiễm thế dục, dứt hẳn nơm rọ của chúng ma phiền não, thoát khỏi cõi hữu lậu, dùng hương trí tuệ để trang nghiêm, nơi các thế gian đều khiến nhiễm trước, thành tựu đầy đủ giới vô trước, thanh tịnh trí vô trước, đi trong cảnh vô trước, ở tất cả xứ đều không chấp trước. Tâm của các ngài bình đẳng, không chấp trước, không y tựa... Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, hiểu được giới môn thanh tịnh của các ngài, thị được công hạnh không sai lầm của các ngài làm, biện được thân khẩu ý lìa nhiễm của các ngài. Mười thứ hương phát xuất từ mười cõi là tượng trưng cho Thập độ, từ Bố thí ba-la-mật cho đến Trí ba-la-mật. Những thứ hương này có công năng đưa người đến chỗ viên mãn. Hương của cõi trời Thiện Biến Hóa có tên là Đoạt ý, tức là thấu hiểu ý của tất cả chúng sanh. Bồ-tát hiện thân làm lợi ích chúng sanh bằng cách hướng vào thế tục để giáo hóa, chuyển tâm niệm chúng sanh đến chỗ viên mãn. Vì vậy hồi hướng không phải như chúng ta tụng kinh xong hồi hướng, mà chính là hồi chuyển sức tự tại giải thoát thanh tịnh của mình vào trong nhân gian, để giáo hóa hướng tâm niệm chúng sanh trở về hạnh chân thật. Này Thiện nam tử! Phương Nam có một thành lớn tên là Lâu Các, trong thành có một người lái thuyền tên là Bà-thi-la. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân trưởng giả Ưu-bát-la-hoa, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến vị thiện tri thức thứ mười hai. Đây là Bất hoại hồi hướng, thuộc vị thứ hai trong Thập hồi hướng. Về pháp tu, lấy Trì giới ba-la-mật làm chính. Phần hồi hướng là phần nhập thế tích cực. Bấy giờ Thiện Tài đi về phía thành Lâu Các, quán sát đường sá. Như là xem đường cao thấp, xem đường bằng hiểm, đường sạch dơ, đường cong ngay. Tự nghĩ rằng: Tôi phải thân cận thiện tri thức đó. Thiện tri thức là nhân thành tựu tu hành những đạo Bồ-tát, là nhân thành tựu tu hành đạo ba-la-mật, là nhân thành tựu tu hành đạo nhiếp chúng sanh, là nhân thành tựu tu hành đạo vào khắp pháp giới vô ngại, là nhân thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh trừ ác tuệ, là nhân thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh lìa kiêu mạn, là nhân thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh diệt trừ phiền não, là nhân thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh bỏ những kiến chấp, là nhân thành đạo khiến các chúng sanh nhổ tất cả gai ác độc, là nhân thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh đến thành Nhất thiết trí. Tại sao vậy? Vì ở chỗ thiện tri thức được tất cả thiện pháp. Vì nương sức thiện tri thức được đạo Nhất thiết trí. Thiện tri thức rất là khó thấy, khó gặp. Đồng tử Thiện Tài sau khi rời khỏi vị thiện tri thức đó rồi, ngài áp dụng lời chỉ dạy của thiện tri thức, tư duy tu chứng tiến lên quả vị khác. Thiện Tài đồng tử suy nghĩ như vậy, đi lần đến thành Lâu Các, thấy Bà-thi-la đương đứng trên bờ biển ở ngoài cửa thành. Trăm ngàn thương gia và vô lượng nhân chúng vây quanh ông. Bà-thi-la vì họ mà nói đại hải pháp phương tiện khai thị Phật công đức hải. Thành tên Lâu Các, thuyền sư tên Bà-thi-la. Lâu các là lầu có nhiều tầng, nhiều lớp cao vót, nhằm chỉ cho trí tuệ để vươn lên. Bà-thi-la nguyên âm tiếng Phạn, Trung hoa dịch là Tự Tại. Nhờ có trí tuệ biết vươn lên nên được tự tại. Đồng tử Thiện Tài đến thành Lâu Các, thấy Bà-thi-la đương đứng trên bờ biển ở ngoài cửa thành, có vô số chúng đang vây quanh. Biển này chỉ cho biển sanh tử. Bồ-tát với tâm đại bi đứng trên bờ biển sanh tử để cứu độ, dẫn dắt chúng sanh qua khỏi biển khổ sanh tử. Thiện Tài đến lễ chân Bà-thi-la hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà nói. Bà-thi-la nói: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử đã có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề, nay lại có thể hỏi nhân duyên sanh đại trí, nhân duyên dứt trừ tất cả khổ sanh tử, nhân duyên đến cõi nước đại bảo Nhất thiết trí. Nhân duyên thành tựu Đại thừa bất hoại. Nhân duyên xa lìa sự bố úy sanh tử an trụ trong những vòng tam-muội tịch tịnh của hàng Nhị thừa. Nhân duyên ngồi xe đại nguyện đi khắp mọi nơi thực hành Bồ-tát hạnh vô ngại thanh tịnh. Nhân duyên dùng Bồ-tát hạnh trang nghiêm Nhất thiết trí thanh tịnh. Nhân duyên quán sát khắp tất cả các pháp mười phương đều vô ngại thanh tịnh. Nhân duyên mau có thể vào biển Nhất thiết trí thanh tịnh. Đoạn này tán thán khen ngợi người phát tâm Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta ở trong đường trên bờ biển ngoài cửa thành Lâu Các này mà tịnh tu hạnh Bồ-tát đại bi tràng. Hạnh đại bi tràng tức là lấy đại bi làm giới thể. Vì thương chúng sanh mà dạy họ làm lành lánh dữ. Này Thiện nam tử! Ta xem thấy chúng sanh nghèo cùng ở Diêm-phù-đề này mà tu các khổ hạnh để lợi ích họ. Làm cho họ được thỏa mãn theo sở nguyện của họ. Trước đem thế lợi cho họ được đầy đủ rồi ban cho họ chánh pháp, cho họ hoan hỷ, cho họ tu phước hạnh, cho họ đạo sanh trí, cho họ thêm sức thiện căn, cho họ phát Bồ-đề tâm, cho họ tịnh Bồ-đề nguyện, cho họ vững chắc sức đại bi, cho họ tu đạo diệt sanh tử, cho họ chẳng nhàm hạnh sanh tử, cho họ nhiếp tất cả chúng sanh hải, cho họ tu tất cả công đức hải, cho họ chiếu rõ tất cả pháp hải, cho họ thấy tất cả Phật hải, cho họ vào Nhất thiết chủng trí hải. Này Thiện nam tử! Ta ở nơi đây suy gẫm như vậy, nghĩ tưởng như vậy, lợi ích như vậy, cho tất cả chúng sanh. Này Thiện nam tử! Ta biết trong biển, tất cả đảo châu báu, tất cả có châu báu, tất cả loại châu báu, tất cả thứ châu báu. Ta biết trao giồi tất cả châu báu, xói xỏ tất cả châu báu, sản xuất tất cả châu báu, làm tất cả châu báu. Ta biết tất cả bảo khí, tất cả bảo dụng, tất cả bảo cảnh giới, tất cả bảo quang minh. Ta biết tất cả chỗ cung điện của rồng, tất cả chỗ cung điện của dạ-xoa, tất cả cung điện của bộ-đa. Pháp bảo của chư Phật nhiều như biển cả mà ngài đều biết hết, nên nói biết tất cả những châu báu ở trên biển. Ta đều khéo tránh những chỗ đó để khỏi những tai nạn. Ta cũng biết rõ chỗ nước xoáy, chỗ cạn sâu, sóng mòi, xa gần, màu nước tốt xấu. Ta cũng biết rõ nhật nguyệt tinh tú vận hành độ số, ngày đêm, sớm chiều, thời tiết dài ngắn. Ta cũng biết rõ trên thuyền, sắt gỗ cứng chắc, mềm yếu, mây móc rít trơn, nước lớn nhỏ, gió nghịch thuận. Tất cả những sự thường an nguy như vậy, ta đều biết rõ cả, nên đi thời đi, nên đậu thời đậu. Này Thiện nam tử! Ta dùng trí tuệ đã thành tựu đó để thường lợi ích tất cả chúng sanh. Này Thiện nam tử! Ta dùng thuyền tốt chở các thương gia đi đường yên ổn, lại thuyết pháp cho họ hoan hỷ. Ta đưa họ đến chỗ châu báu, cho họ đầy đủ châu báu, rồi ta đưa họ về bổn xứ. Các ngài biết rành rẽ tâm của chúng sanh, bệnh của chúng sanh, biết pháp làm lợi ích, chỉ cho biết xấu ác để tránh, phước đức để tu. Chúng sanh có bao nhiêu tội lỗi như biển các ngài đều biết, khéo léo hướng dẫn nghiệp quả tội báo, đem Phật pháp chỉ dạy cho được an ổn. Vì vậy trong phần này Bồ-tát thị hiện làm một thuyền sư, tức người lái thuyền mà ngày nay gọi là hoa tiêu. Người lái thuyền thì phải biết rõ trên sông chỗ nào hiểm trở, chỗ nào dễ dàng, chỗ nào có nước xoáy, chỗ nào có đá ngầm... để đưa người tới tận nơi có châu báu rồi trở về bổn xứ an ổn. Này Thiện nam tử! Ta đem thuyền lớn qua lại như vậy, chưa có lần nào bị tổn thất. Nếu ai thấy thân ta, nghe ta thuyết pháp, thời họ trọn chẳng còn sợ biển sanh tử, mà được vào biển Nhất thiết trí tất có thể tiêu diệt những biển ái dục, có thể dùng trí quang chiếu sáng biển tam thế, có thể làm hết biển khổ của tất cả chúng sanh, có thể làm sạch tâm hải của tất cả chúng sanh, có thể nghiêm tịnh tất cả sát hải, có thể qua đến khắp biển lớn mười phương, có thể biết khắp căn hải của tất cả chúng sanh, có thể biết hạnh hải của tất cả chúng sanh, có thể thuận khắp tâm hải của tất cả chúng sanh. Này Thiện nam tử! Ta chỉ được đại bi tràng hạnh này. Nếu có ai thấy ta, nghe đến ta, cùng ta đồng ở, nhớ tưởng đến ta, thời đều chẳng phí uổng. Như chư đại Bồ-tát khéo tu hành trong biển lớn sanh tử, chẳng nhiễm tất cả những biển phiền não, có thể bỏ tất cả những biển vọng kiến, có thể quán sát những biển pháp tánh, có thể dùng tứ nhiếp để nhiếp biển chúng sanh, đã khéo an trụ biển Nhất thiết trí, có thể diệt trừ biển chấp trước của tất cả chúng sanh, có thể bình đẳng trụ nơi biển tất cả thời gian, có thể dùng thần thông độ biển chúng sanh, có thể theo thời nghi điều phục biển chúng sanh... Ta làm thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Người lái thuyền giỏi không bao giờ bị thất bại, bởi không chỉ lòng đại bi mà còn có trí tuệ nữa. Chúng ta ngược lại, thường có bi thiếu trí, hoặc có trí thiếu bi nên độ chúng sanh thường gặp thất bại. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có thành tên là Khả Lạc. Trong thành ấy có trưởng giả tên là Vô Thượng Thắng. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bà-thi-la, hữu nhiễu vô lượng vòng, buồn khóc rơi lệ, ân cần chiêm ngưỡng, tâm thiết tha cầu thiện tri thức từ tạ mà đi. Vị thứ ba trong Thập hồi hướng là Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng, nghĩa là đồng với tất cả chư Phật hồi hướng. Pháp tu lấy nhẫn nhục làm chính. Lúc đó Thiện Tài phát tâm đại từ cùng khắp, tâm đại bi nhuần thấm tiếp nối không dứt, phước tâm đại bi nhuần thấm tiếp nối không dứt, phước đức trí tuệ hai thứ trang nghiêm. Bỏ rời tất cả phiền não trần cấu, chứng pháp bình đẳng, tâm không cao hạ, nhổ gai bất thiện, diệt tất cả chướng, kiên cố tinh tấn dùng làm hào tường, thậm thâm tam-muội làm vườn tược. Dùng mặt nhật trí tuệ phá tối vô minh. Dùng gió phương tiện nở hoa trí tuệ. Dùng vô ngại nguyện sung mãn pháp giới. Tâm thường hiện nhập thành trì Nhất thiết trí. Như vậy mà cầu đạo Bồ-tát. Đoạn này nói về sự tu hành của đồng tử Thiện Tài. Thiện Tài đi lần đến thành Khả Lạc, thấy trưởng giả Vô Thượng Thắng ở nơi thành đông, trong rừng Vô ưu đại trang nghiêm tràng, có vô lượng thương gia và năm ngàn cư sĩ vây quanh. Trưởng giả quản lý phán đoán những sự vụ nhân gian, rồi Trưởng giả lại nhân đó vì đại chúng mà thuyết pháp. Thành tên Khả Lạc, vì đức nhẫn nhục làm cho mọi người được an vui. Trưởng giả Vô Thượng Thắng, tức không có gì hơn được. Đức nhẫn nhục có sức mạnh phi thường không gì bì nổi. Chư Phật dùng nhẫn nhục để thắng ma vương, thắng tất cả những tà kiến điên đảo, ngạo mạn, nên được tôn xưng là bậc đại hùng đại lực. Bồ-tát tu đến hạnh này cũng phải lấy đức nhẫn nhục như Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, vì vậy gọi là Đẳng nhất thiết chư Phật hồi hướng. Có vô lượng thương gia và năm ngàn cư sĩ vây quanh. Thông thường thương gia là chỉ cho những người buôn cầu tài lợi, nhưng vô lượng thương gia ở đây là nhằm tượng trưng cho người cầu pháp bảo. Trăm ngàn cư sĩ là những vị thiểu dục nghiêng về trí tuệ. Như vậy chỗ giáo hóa này nhằm vào việc dùng pháp bảo độ sanh, khiến chúng sanh biết thiểu dục tri túc, thành tựu trí tuệ. Chuyển tất cả ngũ dục, lục trần thành Phật pháp. Làm cho họ khỏi hẳn tất cả ngã mạn, rời ngã và ngã sở, bỏ chỗ tích tụ, diệt tham xan tật đố, tâm được thanh tịnh không trược uế, được sức tịnh tín, thường thích thấy Phật, thọ trì Phật pháp sanh Bồ-tát lực, khởi Bồ-tát hạnh, nhập Bồ-tát tam-muội, được Bồ-tát trí tuệ, trụ Bồ-tát chánh niệm, thêm Bồ-tát chí nguyện. Đức nhẫn nhục được thành tựu từ trong rối rắm khó khăn, ở nhân gian quản lý một gia đình đã khó, huống là quản lý tất cả chúng sanh. Bồ-tát nhân những tập khí của chúng sanh mà giáo hóa, đưa họ trở về đạo chân thật, khắp được lợi ích. Thiện Tài thấy trưởng giả Vô Thượng Thắng đã vì đại chúng thuyết pháp xong, liền đến đảnh lễ chân Trưởng giả giây lâu mới đứng dậy thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi là Thiện Tài. Tôi chuyên tìm cầu hạnh Bồ-tát. Những phần trước diễn tả đồng tử Thiện Tài tới chỗ nào cũng đảnh lễ xong liền thưa hỏi, đến phần này ngài đảnh lễ dưới chân Trưởng giả giây lâu rồi mới đứng dậy. Giây lâu đó có ý nghĩa gì? Trong phần Thập hạnh, nói về nhẫn nhục bằng hình ảnh ưu-bà-di với cái bát nhỏ xíu mà ban cho chúng sanh tất cả vật dụng tùy theo sở thích. Ở đây diễn tả Thiện Tài đảnh lễ dưới chân giây lâu mới thưa hỏi, để chỉ cho lòng khiêm hạ. Vì là đức nhẫn nhục nên lúc nào cũng đặt khiêm hạ lên trước. Bạch đức Thánh! Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh? Bồ-tát thế nào tu Bồ-tát đạo? Lúc tu học làm thế nào thường có thể hóa độ tất cả chúng sanh, thường có thể hiện thấy tất cả chư Phật, thường được nghe tất cả Phật pháp, thường có thể trụ trì tất cả Phật pháp, thường có thể vào tất cả pháp môn, vào tất cả cõi học Bồ-tát hạnh, trụ tất cả kiếp tu Bồ-tát đạo, có thể biết thần lực của tất cả Như Lai, có thể được tất cả Như Lai hộ niệm, có thể được tất cả Như Lai trí tuệ? Trưởng giả Vô Thượng Thắng nói: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử đã có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta thành tựu Chí nhất thiết xứ Bồ-tát hạnh môn, sức thần thông vô y vô tác. Đến đây là gần tới chỗ vô công dụng hạnh, nghĩa là làm lợi ích cho các chúng sanh, đến tất cả nơi mà không thấy có công dụng. Này Thiện nam tử! Thế nào là Chí nhất thiết xứ Bồ-tát hạnh môn? Này Thiện nam tử! Ta ở tại Đại thiên thế giới này, trong tất cả chúng sanh nơi Dục giới. Những là tất cả Đao-lợi thiên, tất cả Tu-dạ-ma thiên, tất cả Đâu-suất-đà thiên, tất cả Thiện Biến Hóa thiên, tất cả Tha Hóa Tự Tại thiên, tất cả Ma thiên và tất cả chỗ ở của chư thiên, long, dạ-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân. Ta ở trong tất cả nơi đó mà vì tất cả chúng sanh thuyết pháp, làm cho họ bỏ phi pháp dứt tranh luận, trừ chiến đấu, thôi giận tranh, phá oan kiết, mở trói buộc, khỏi lao ngục, thoát bố úy, không sát sanh, nhẫn đến không tà kiến. Đều làm cho họ cấm chỉ tất cả ác nghiệp những sự chẳng nên làm, khiến họ thuận làm tất cả pháp lành, khiến họ học tất cả kỹ nghệ, làm lợi ích ở thế gian. Vì họ mà phân biệt các thứ luận cho họ hoan hỷ, cho họ lần lần thành thục. Tùy thuận ngoại đạo, vì họ mà giảng thắng trí, cho họ dứt kiến chấp, cho họ nhập Phật pháp. Nhẫn đến tất cả Phạm thiên cõi Sắc, ta cũng vì họ mà nói pháp siêu thắng. Chí nhất thiết xứ Bồ-tát hạnh là pháp tu làm cho tất cả trời người... trong Tam thiên đại thiên thế giới đều dứt hết tâm oán thù, ác độc, lo sợ, tà kiến... trở về tu các pháp lành cho đến được pháp siêu thắng. Như vậy hạnh nhẫn nhục đó là vì độ chúng sanh, chứ không phải chỉ để riêng mình không phạm tội lỗi. Như ở Đại thiên thế giới này, trong mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na-do-tha Phật sát vi trần số thế giới, ta cũng vì tất cả chúng sanh mà giảng nói Phật pháp, Bồ-tát pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp. Ta giảng nói địa ngục, chúng sanh địa ngục, nghiệp đạo địa ngục. Địa ngục là chỗ ở của chúng sanh thọ khổ. Chúng sanh địa ngục là những chúng sanh thọ khổ trong địa ngục. Nghiệp đạo hướng địa ngục là nhân khiến cho chúng sanh rơi vào địa ngục, như thập ác v.v... Ta giảng nói súc sanh, súc sanh sai biệt, súc sanh thọ khổ, nghiệp đạo hướng súc sanh. Súc sanh là chỉ chung các loài súc sanh. Súc sanh sai biệt là trong loài súc sanh mỗi mỗi thọ thân riêng khác. Súc sanh thọ khổ là mỗi loại súc sanh chịu những khổ nạn gì. Ta giảng nói Diêm-la vương thế gian, khổ của Diêm-la vương thế gian, nghiệp đạo hướng Diêm-la vương thế gian. Cõi địa ngục, cõi người và cõi trời đều thuộc thế gian, nên gọi chung là thế gian, chứ không phải chỉ riêng cõi nhân gian mới gọi là thế gian. Ta giảng nói nhân gian, khổ vui của nhân gian, nghiệp đạo hưởng nhân gian. Ta giảng nói thiên thế gian, vui của thiên thế gian, nghiệp đạo hưởng thiên thế gian. Ta thuyết pháp là vì muốn khai hiển công đức của Bồ-tát vì làm cho chúng sanh bỏ lìa khổ hoạn sanh tử, vì làm cho họ biết thấy những diệu công đức của Nhất thiết trí, vì muốn cho họ diệt sự mê lầm thọ khổ trong các loài, vì cho họ thấy biết pháp không chướng ngại, vì muốn hiển thị sở nhân sanh khởi thế gian, vì muốn hiển thị thế gian tịch diệt là vui, vì làm cho chúng sanh bỏ những chấp tưởng, vì làm cho họ chứng pháp vô y của Phật, vì làm cho họ diệt hẳn các phiền não, vì làm cho họ có thể chuyển Phật pháp luân. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Chí nhất thiết xứ tu Bồ-tát hạnh thanh tịnh, sức thần thông vô y vô tác. Như chư Bồ-tát đầy đủ tất cả thần thông tự tại, đều có thể đến khắp tất cả cõi Phật, được bậc phổ nhãn, đều nghe tất cả âm thanh ngôn thuyết, trí tuệ tự tại vào khắp các pháp, không trái không sai, dũng kiện không ai bằng, dùng tướng lưỡi rộng dài nói bình đẳng, thân các ngài diệu hảo cùng chư Như Lai rốt ráo không hai, không khác, trí thân quảng đại vào khắp tam thế cảnh giới không ngằn mé đối với hư không... Ta làm thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Đó là mục tiêu của ngài giáo hoá trong các cõi. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một quốc độ tên là Thâu-na. Nước đó có thành tên là Ca-lăng-ca-lâm. Trong thành có Tỳ-kheo-ni tên là Sư Tử Tần Thân. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân trưởng giả Vô Năng Thắng, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Phần này là Chí nhất thiết trí hồi hướng, là phần thứ tư trong Thập hồi hướng. Pháp tu lấy Tinh tấn ba-la-mật làm chính. Thiện Tài đi lần đến thành Ca-lăng-ca-lâm tìm Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân. Người trong thành bảo rằng Tỳ-kheo-ni ấy hiện ở tại trong vườn Nhật Quang của vua Thắng Quang hỷ cúng, đương thuyết pháp lợi ích vô lượng chúng sanh. Thiện Tài liền đến vườn Nhật Quang, thấy trong vườn có một đại thọ tên Mãn nguyệt, tàng cây như lâu các, phóng ánh sáng chiếu một do-tuần. Thấy một diệp thọ tên Phổ phúc, hình như cây lọng, phóng ánh sáng màu tỳ-lưu-ly xanh biếc. Thấy một hoa thọ tên Hoa tạng cao lớn hình như núi Tuyết, tuôn những hoa đẹp không cùng tận, như cây Ba-lợi-chất-đa-la nơi cung trời Đao-lợi. Lại thấy một cam lộ quả thọ, hình như tòa núi vàng thường phóng quang minh, sai trĩu những trái cam lộ. Lại thấy một ma-ni bảo thọ tên Tỳ-lô-giá-na tạng, hình đẹp không gì bằng, tâm vương ma-ni bảo ở trên chót cây, vô số ma-ni bảo trang nghiêm khắp cây. Lại thấy y thọ tên Thanh tịnh, những y phục nhiều màu thòng rủ nghiêm sức. Lại có âm nhạc thọ tên Hoan hỷ, vang tiếng âm nhạc hơn cả nhạc trời. Lại có hương thọ tên Phổ trang nghiêm, hằng phát mùi thơm huân khắp mười phương không chướng ngại. Trong vườn lại có suối chảy, ao mát, tất cả đều bằng thất bảo trang nghiêm, bùn hắc chiên-đàn chứa đọng trong đó, các chân kim trải mặt đáy, toàn nước bát công đức. Hoa sen bốn màu xanh vàng đỏ trắng phô trên mặt nước. Trong vườn có vô lượng bảo thọ bày hàng khắp nơi. Mỗi gốc cây có một tòa sư tử, trang nghiêm với các thứ diệu bảo, dùng thiên y để trải, ướp bằng diệu hương, thòng những lụa báu, giăng những bảo trướng, vàng diêm-phù-đàn che phía trên, lạc báu chạm reo vang tiếng vi diệu. Hoặc có gốc cây thiết tòa liên hoa tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa hương vương ma-ni tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa long trang nghiêm ma-ni vương tạng. Có gốc cây thiết tòa bảo sư tử tụ ma-ni vương tạng. Có gốc cây thiết tòa Tỳ-lô-giá-na ma-ni vương tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa thập phương Tỳ-lô-giá-na ma-ni vương tạng sư tử. Mỗi sư tử tòa đều có mười vạn tòa báu vây quanh, đều đủ vô lượng thứ trang nghiêm. Trong vườn Nhật Quang này, đầy những châu báu như bảo đảo ngoài đại hải. Dùng y ca-lân-đà trải mặt đất, y này rất êm dịu mềm mát. Đạp lên thời lún bàn chân, giở chân thời hoàn lại. Có vô lượng thứ chim vang tiếng hòa nhã. Rừng cây bảo chiên-đàn rất trang nghiêm, thường tuôn diệu hoa vô tận, như vườn tạp hoa của thiên Đế-thích. Hương vương vô tỷ thơm ngát khắp nơi, như Thiện Pháp đường của thiên đế. Những cây âm nhạc, cây bảo đa-la, những lưới linh báu, vang tiếng vi diệu, như tiếng ca ngâm của Thiện Khẩu thiên nữ ở cung trời Tự Tại. Những cây như ý thòng rủ các thứ y đẹp trang nghiêm rộng lớn như đại hải, có vô lượng màu sắc. Trăm ngàn lâu các trang nghiêm bằng châu báu, như thành Thiện Kiến ở Đao-lợi thiên cung. Lọng báu giăng rộng như đảnh núi Tu-di. Quang minh chiếu sáng như cung trời Phạm vương. Chí nhất thiết trí hồi hướng, trí là chỉ cho trí tuệ Bát-nhã. Vườn tên Nhật Quang, cũng tượng trưng cho trí tuệ mãnh liệt. Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân. Sư tử tượng trưng trí tuệ. Tần thân tượng trưng cho từ bi, mà Tỳ-kheo-ni cũng là hiện thân của từ bi. Nghĩa là đầy đủ từ bi và trí tuệ, bi trí quân bình thì mới có thể làm lợi ích cho chúng sanh cùng khắp không bị chướng ngại. Đây thuộc về quả vị tinh tấn, nên diễn tả Tỳ-kheo-ni đi khắp tất cả chỗ làm lợi ích cho chúng sanh. Bởi vì tinh tấn là sức mạnh để thành tựu những công đức lành, là đức làm cho viên mãn Phật pháp. Thế nên ở đây diễn tả khung cảnh của Tỳ-kheo-ni này ở đẹp đẽ vô cùng, cây cối vườn rừng v.v... cái gì cũng là mãnh lệ trang nghiêm, cho tới diệu dụng cũng hơn hẳn những vị trước. Thiện Tài thấy vườn Nhật Quang có số lượng công đức, vô lượng trang nghiêm. Đây là do công hạnh của Bồ-tát cảm thành, căn lành xuất thế phát khởi, cúng dường chư Phật sanh ra, tất cả thế gian không đâu sánh bằng. Sở dĩ có sự trang nghiêm vô lượng ấy là do công hạnh tinh tấn của Bồ-tát cảm thành, từ căn lành xuất thế phát khởi cúng dường chư Phật mà sanh ra, chứ không phải tự nhiên mà có. Đây là do Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân thấu rõ pháp như huyễn, chứa nhóm phước đức lành thanh tịnh quảng đại mà thành tựu cảnh vườn trang nghiêm này. Thấu rõ pháp như huyễn là do trí chứa nhóm phước đức lành thanh tịnh trang nghiêm, nhờ bi mà thành tựu được điều đó. Bi trí song hành mới có được sự trang nghiêm đầy đủ như vậy. Thiên long, bát bộ vô lượng chúng sanh trong Đại thiên thế giới đều vào vườn này vẫn không chật hẹp. Tại sao vậy? Vì do oai thần bất tư nghì của Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân này khiến nên như vậy. Thiện Tài thấy Tỳ-kheo-ni này ngồi khắp trên tất cả tòa đại sư tử dưới những cội cây. Thân tướng đoan nghiêm, oai nghi tịch tịnh. Các căn điều thuận như đại tượng vương. Tâm không cấu trược như thanh tịnh địa. Khắp giúp ích chỗ cầu của mọi người như bảo châu như ý. Không nhiễm thế gian như hoa sen. Tâm vô úy như sư tử vương. Hộ trì tịnh giới vững vàng như núi Tu-di. Có thể làm cho người thấy lòng được thanh tịnh như diệu hương vương. Có thể trừ phiền não của chúng sanh như hương diệu chiên-đàn trong núi Tuyết. Chúng sanh được thấy thời hết khổ như Thiện Kiến Dược vương. Người thấy chẳng luống uổng như Bà-lâu-na thiên. Có thể sanh trưởng tất cả mầm thiện căn như ruộng phì nhiêu. Tại mỗi tòa đại sư tử chúng hội không đồng nhau, lời thuyết pháp cũng đều sai khác. Hoặc thấy chỗ thời chúng hội là Tịnh Cư thiên, thượng thủ là Đại Tự Tại thiên vương. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn Vô tận giải thoát. Chỗ thời chúng hội là Phạm thiên, Ái Lạc Phạm vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ môn sai biệt thanh tịnh ngôn âm luân. Chỗ thời chúng hội là Tha Hóa Tự Tại thiên, các thiên tử, thiên nữ vây quanh, Tự Tại thiên vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Bồ-tát Thanh Tịnh Tâm. Chỗ thời chúng hội là Thiện Biến Hóa thiên, các thiên tử, thiên nữ vây quanh, Thiện Hóa thiên vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Nhất thiết pháp thiện trang nghiêm. Chỗ thời chúng hội là Đâu-suất thiên, các thiên tử, thiên nữ vây quanh, Đâu-suất thiên vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tâm tạng triền. Chỗ thời chúng hội là Dạ-ma thiên, các thiên tử, thiên nữ vây quanh, Dạ-ma thiên vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô biên trang nghiêm. Chỗ thời chúng hội là Đao-lợi thiên, các thiên tử, thiên nữ vây quanh, Thích-đề-hoàn-nhân làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Yểm ly môn. Chỗ thời chúng hội là chư long tử, long nữ, Bá Quang Minh long vương, Nan-đà long vương, Ưu-ba-nan-đà long vương, Ma-na-tư long vương, Y-la-bạt-nan-đà long vương, A-na-bà-đạt-đa long vương v.v… Ta-già long vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật thần thông cảnh giới quang minh trang nghiêm. Chỗ thời chúng hội là thần dạ-xoa, Tỳ-sa-môn thiên vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Cứu hộ chúng sanh tạng. Chỗ thời chúng hội là thần càn-thát-bà, Trì Quốc thiên vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô tận hỷ. Chỗ thời chúng hội là a-tu-la, La-hầu a-tu-la vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tốc tật trang nghiêm pháp giới trí môn. Chỗ thời chúng hội là ca-lâu-la, Thiệp Trì ca-lâu-la vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Bố động chư hữu hải. Chỗ thời chúng hội là khẩn-na-la, Đại Thọ khẩn-na-la vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật hạnh quang minh. Chỗ thời chúng hội là ma-hầu-la-già, Am-la Lâm ma-hầu-la-già vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Sanh Phật hoan hỷ tâm. Chỗ thời chúng hội là vô lượng nam tử, nữ nhân. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Thù thắng hạnh. Chỗ thời chúng hội là la-sát, Thường Đoạt Tinh Khí Đại Thọ la-sát vương làm thượng thủ. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phát sanh bi mẫn tâm. Chỗ thời chúng hội là chúng sanh tin ưa Thanh văn thừa. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Thắng trí quang minh. Chỗ thời chúng hội là chúng sanh tin ưa Duyên giác thừa. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật công đức quảng đại quang minh. Chỗ thời chúng hội là những chúng sanh tin ưa Đại thừa. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ môn tam-muội trí quang minh môn. Chỗ thời chúng hội là Sơ phát tâm Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Nhất thiết Phật nguyện tụ. Chỗ thời chúng hội là đệ Nhị địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Ly cấu luân. Chỗ thời chúng hội là đệ Tam địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tịch tịnh trang nghiêm. Chỗ thời chúng hội là đệ Tứ địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Sanh Nhất thiết trí cảnh giới. Chỗ thời chúng hội là đệ Ngũ địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Diệu hoa tạng. Chỗ thời chúng hội là đệ Lục địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tỳ-lô-giá-na tạng. Chỗ thời chúng hội là đệ Thất địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ trang nghiêm địa. Chỗ thời chúng hội là đệ Bát địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Biến pháp giới cảnh giới thân. Chỗ thời chúng hội là đệ Cửu địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô sở đắc lực trang nghiêm. Chỗ thời chúng hội là đệ Thập địa Bồ-tát. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô ngại luân. Chỗ thời chúng hội là Chấp Kim Cang Thần. Tỳ-kheo-ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Kim cang trí na-la-diên trang nghiêm. Mỗi tòa có một chúng hội khác nhau, mỗi chúng hội lại có một vị làm thượng thủ, trong mỗi mỗi tòa đồng có Tỳ-kheo-ni ngồi nói pháp. Tất cả chúng hội được nghe thuyết pháp, thảy đều được pháp môn vi diệu phù hợp với chúng hội đó. Hình ảnh này để nói lên sức tinh tấn của Bồ-tát làm cho mọi người đều được như ý. Thiện Tài thấy khắp nơi, các loài, các chúng sanh đã thành thục, đã điều phục, kham làm pháp khí đều vào trong vườn này quây quần ngồi quanh dưới bảo tòa. Sư Tử Tần thân Tỳ-kheo-ni tùy theo trí giải thắng liệt sai khác của họ mà vì họ thuyết pháp, cho họ chẳng thối chuyển nơi vô thượng Bồ-đề. Tại sao vậy? Vì Tỳ-kheo-ni này nhập Phổ nhãn xả, chứng được môn Bát-nhã ba-la-mật, môn Bát-nhã ba-la-mật diễn nói tất cả Phật pháp, môn Bát-nhã ba-la-mật pháp giới sai biệt, môn Bát-nhã ba-la-mật tán hoại tất cả chướng ngại, môn Bát-nhã ba-la-mật sanh thiện tâm cho tất cả chúng sanh, môn Bát-nhã ba-la-mật thù thắng trang nghiêm, môn Bát-nhã ba-la-mật pháp giới viên mãn, môn Bát-nhã ba-la-mật tâm tạng, môn Bát-nhã ba-la-mật khắp xuất sanh tạng. Tất cả môn Bát-nhã nhìn thấy các pháp như huyễn tường tận đúng lẽ thật của nó. Trong mười môn này, đầu tiên là Bát-nhã ba-la-mật môn. Tỳ-kheo-ni này nhập vô số trăm ngàn môn Bát-nhã ba-la-mật như vậy. Tất cả Bồ-tát và chúng sanh trong vườn Nhật Quang đều là do Sư Tử Tần Thân Tỳ-kheo-ni khuyên phát tâm thọ trì chánh pháp tư duy tu tập, đều được bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh giác. Thiện Tài đồng tử thấy khu vườn như vậy, bảo toà như vậy, kinh hành như vậy, chúng hội như vậy, thần lực như vậy, biện tài như vậy. Lại nghe bất tư nghì pháp môn, pháp vân quảng đại nhuần thấm tâm mình, bèn nghĩ rằng tôi sẽ cung kính hữu nhiễu Tỳ-kheo-ni này vô lượng trăm ngàn vòng. Lúc đó Sư Tử Tần Thân Tỳ-kheo-ni phóng đại quang minh chiếu khắp khu vườn Nhật Quang và chúng hội. Thiện Tài liền thấy thân mình cùng tất cả bảo thọ trong vườn đều đồng thời hữu nhiễu Tỳ-kheo-ni này cả vô lượng trăm ngàn muôn vòng. Thiện Tài diễn tả những điều mình thấy, tất cả chúng hội và cây báu trong vườn Nhật Quang đều nhận được hào quang của Tỳ-kheo-ni phóng ra, đồng thời cảm ứng đi nhiễu vòng quanh. Hào quang đó nói lên trí tuệ chuyển mọi thứ đều theo ý mình. Hữu nhiễu xong, Thiện Tài chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Tỳ-kheo-ni nói: Này Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát tên là Thành tựu Nhất thiết trí. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cớ sao gọi là Thành tựu Nhất thiết trí. Tỳ-kheo-ni nói: Này Thiện nam tử! Quang minh của trí này, trong một niệm chiếu khắp tất cả tam thế Phật pháp. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Quang minh của trí này, cảnh giới thế nào? Tỳ-kheo-ni nói: Này Thiện nam tử! Ta nhập môn trí quang minh này được xuất sanh nhất thiết pháp tam-muội vương. Do tam-muội này nên được ý sanh thân qua đến mười phương tất cả thế giới, chỗ của Nhất sanh bổ xứ Bồ-tát nơi cung Đâu-suất. Trước mỗi Bồ-tát, ta hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số thân. Mỗi thân dâng bất khả thuyết Phật sát vi trần số đồ cúng dường. Như là hiện thân thiên vương, nhẫn đến thân nhân vương cầm hoa vân, hương vân, y phục, anh lạc, bảo phan, bảo cái, bảo võng, bảo trướng, bảo tạng, bảo đăng, dâng lên cúng dường. Như ở chỗ Bồ-tát nơi Đâu-suất Thiên cung, nơi Bồ-tát trụ thai, xuất thai, tại gia, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn. Trong khoảng thời gian đó, hoặc ở Thiên cung, hoặc ở Long cung, nhẫn đến Nhân cung, nơi mỗi mỗi đức Như Lai, ta đều cúng dường như vậy. Sao gọi là thành tựu Nhất thiết trí? Vì quang mình của trí này, chỉ trong một niệm có thể chiếu khắp Phật pháp trong ba đời. Vào được cảnh giới xuất sanh tất cả tam-muội, do tam-muội đó mà được ý sanh thân, đền tận mười phương thế giới, cúng dường các đức Như Lai… Đây là công dụng của Nhất thiết trí mà Tỳ-kheo-ni đã thành tựu. Nếu có chúng sanh nào biết ta cúng dường chư Phật như vậy, thời đều được chẳng thối chuyển nơi vô thượng Bồ-đề. Chúng sanh nào biết những việc làm của Tỳ-kheo-ni này như vậy thì người đó được bất thối chuyển Bồ-đề. Sao chỉ mới biết mà đã được bất thối chuyển Bồ-đề? Bởi vì tùy theo căn cơ của mỗi người cao thấp mà thấy cảnh của Bồ-tát có khác. Như đoạn trước nói, ở trong hội của chư Phật hiện những thần thông nhưng hàng Thanh văn không hay không biết. Thế nên được bất thối chuyển vô thượng Bồ-đề phải là người có căn cơ tương ưng như vậy. Nếu chúng sanh nào đến chỗ của ta, thời ta vì họ mà giảng nói Bát-nhã ba-la-mật. Này Thiện nam tử! Ta thấy tất cả chúng sanh, vì trí nhãn thấy rõ nên ta chẳng phân biệt chúng sanh tướng. Bồ-tát thấy chúng sanh bằng trí nhãn nên chẳng phân biệt chúng sanh tướng, còn chúng ta thấy chúng sanh cao thấp, trắng đen, đẹp xấu... do phân biệt chúng sanh tướng nên sanh yêu ghét khổ đau. Nếu dùng con mắt trí tuệ thấy chúng sanh duyên hợp như huyễn thì đâu có gì để phân biệt. Nghe tất cả ngữ ngôn, vì tâm không chấp trước nên ta chẳng phân biệt ngữ ngôn tướng. Nghe tất cả ngữ ngôn đều biết ngữ ngôn không thật, nên không chấp vào tướng ngữ ngôn. Nếu nghe mà khen chê, hay dở... là phân biệt tướng ngữ ngôn. Thấy tất cả Như Lai, vì thấu rõ pháp thân nên ta chẳng phân biệt Như Lai tướng. Nhìn thấy Phật qua hình tướng đẹp xấu, trang nghiêm hay không trang nghiêm... là do chúng ta không thấy pháp thân Phật. Nếu thấy pháp thân Phật thì những hóa thân bằng hình tượng đó như thế nào, chúng ta cũng đều biết rõ không chấp trước. Trụ trì tất cả pháp luân, vì ngộ pháp tự tánh nên ta chẳng phân biệt pháp luân tướng. Nơi Phật vì thấy được pháp thân nên không chấp vào tướng Phật. Nơi tất cả pháp luân vì thấy được tự tánh pháp nên không chấp vào tướng pháp luân. Một niệm biết khắp tất cả pháp, vì biết pháp như huyễn nên ta chẳng phân biệt pháp tướng. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Thành tựu Nhất thiết trí này. Như chư đại Bồ-tát tâm vô phân biệt biết khắp các pháp, một thân ngồi yên mà đầy khắp cả pháp giới. Ở trong tự thân hiện tất cả cõi. Khoảng một niệm đến khắp tất cả chỗ Phật. Ở trong tự thân hiện khắp tất cả thần lực của chư Phật. Dùng một sợi lông đỡ khắp bất khả thuyết thế giới lên. Trong một lỗ lông nơi tự thân hiện bất khả thuyết thế giới thành hoại. Trong khoảng một niệm cùng với bất khả thuyết chúng sanh đồng ở. Trong khoảng một niệm nhập bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp... Ta thế nào biết được, nói hết được công đức diệu hạnh đó. Một niệm biết tất cả pháp, vì các pháp đều như huyễn, nên không phân biệt pháp tướng. Thấy biết của Bồ-tát khác thấy biết của chúng ta. Chúng ta biết là biết qua hình thể, qua giá trị của sự vật xem như thế nào... do phân biệt pháp tướng nên mình không biết tất cả. Bồ-tát biết là biết các pháp giả dối như huyễn, duyên hợp không thật, vì không phân biệt pháp tướng nên nơi một niệm các ngài rõ biết được tất cả. Đó là hai điểm khác nhau giữa trí của chúng ta và trí của Bồ-tát. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Hiểm Nạn. Nước đó có thành tên là Bảo Trang Nghiêm. Trong thành ấy có một nữ nhân tên là Bà-tu-mật-đa. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Sư Tử Tần Thân Tỳ-kheo-ni hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đây là Vô tận công đức tạng hồi hướng, tức kho tàng công đức vô tận, là vị thứ năm trong Thập hồi hướng. Pháp tu thuộc Thiền định ba-la-mật. Thiện Tài được đại trí quang minh soi mở tâm, tư duy quán sát thấy tánh của các pháp. Được môn đà-la-ni rõ biết tất cả ngôn âm. Được môn đà-la-ni thọ trì tất cả pháp luân. Được sức đại bi làm chỗ quy y cho tất cả chúng sanh. Được môn quang minh quán sát nghĩa lý của tất cả pháp. Được thanh tịnh nguyện sung mãn pháp giới. Được trí quang minh chiếu khắp mười phương tất cả các pháp. Được sức tự tại khắp trang nghiêm tất cả thế giới. Được viên mãn nguyện khắp phát khởi tất cả Bồ-tát hạnh. Thiện Tài đi lần đến nước Hiểm Nạn, thành Bảo Trang Nghiêm tìm Bà-tu-mật-đa nữ. Phần này nói về kho công đức vô tận, nên thành có tên là Bảo Trang Nghiêm. Bà-tu-mật-đa là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thế Hữu, tức là bạn của tất cả chúng sanh. Nước tên Hiểm Nạn. Hiện thân bên ngoài có những khó khăn nguy hiểm, nhưng trong tâm lại chứa đựng Phật pháp vô lượng, vì vậy hạnh của Bà-tu-mật-đa lạ thường ít ai biết được. Trong thành những người chẳng biết công đức trí tuệ của cô gái ấy nên nghĩ rằng: Đồng tử này thân căn tịch tịnh, trí tuệ sáng suốt chẳng mê chẳng loạn, nhìn kỹ một tầm không lười mỏi, không chấp trước, mắt ngó chẳng nháy, tâm không tán động sâu rộng như đại hải. Người như vậy chẳng nên ở nơi cô gái Bà-tu-mật-đa mà có tâm tham ái, có tâm điên đảo, sanh tưởng là sạch, sanh tưởng ái dục. Chẳng nên bị nữ sắc cám dỗ. Đồng tử này chẳng làm hạnh ma, chẳng nhập ma cảnh, chẳng chìm nước bùn ái dục, chẳng bị ma trói, chỗ chẳng nên làm đã có thể chẳng làm. Sao lại có ý gì mà tìm cô gái này. Có người đã biết công đức trí tuệ của cô gái này bèn bảo Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử có thể tìm Bà-tu-mật-đa nữ. Thế là đã được lợi lành rộng lớn. Thiện nam tử nên quyết định cầu quả vị Phật, quyết định vì chúng sanh mà làm chỗ y tựa, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái cho tất cả chúng sanh, quyết định muốn phá những ý tưởng sạch sẽ đối với nữ sắc của tất cả chúng sanh. Này Thiện nam tử! Bà-tu-mật-đa nữ hiện ở nhà của cô tại chợ Bắc trong thành này. Khi đồng tử Thiện Tài hỏi thăm chỗ ở của Bà-tu-mật-đa, có những người cho rằng cô gái này không đàng hoàng, nên họ phiền trách ngài là người đứng đắn sao tìm đến người không đàng hoàng. Lại có những người rõ biết chân thật thì họ khuyến khích ngài, đó là chỗ nên đến, nên dừng, đến đó sẽ được công đức lớn, sẽ được lợi lành lớn. Sở dĩ có hai quan niệm trái nghịch như thế là do trình độ hiểu biết sai biệt nên có sự nhận định khen chê như vậy. Thiện Tài vui mừng hớn hở đến cổng nhà Bà-tu-mật-đa nữ. Thấy nhà này rộng rãi nghiêm lệ, tường báu, cây báu, hào báu, mỗi mỗi bao quanh mười lớp. Trong hào báu đầy đủ nước thơm, cát vàng trải đáy, những bảo hoa, bông sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng đua nở trên mặt nước. Cung điện lâu các đều tráng lệ. Cửa nẻo thành hàng nối nhau, đều treo lạc, treo lưới, đều treo phan, treo tràng. Vô lượng trân kỳ dùng để nghiêm sức. Đất bằng lưu ly xen lẫn những châu báu. Xông trầm thủy, thoa chiên-đàn. Treo những linh báu, gió rung trổi nhạc. Rải những thiên hoa trải khắp mặt đất. Những sự trang nghiêm tráng lệ không thể tả hết. Những kho tàng trân bảo đến số trăm ngàn. Mười khu vườn lớn rất mực trang nghiêm. Thiện Tài thấy Bà-tu-mật-đa nữ nhan mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn. Da màu chân kim. Tóc và mắt màu xanh biếc, dáng dài ngắn, chẳng thô tế, tất cả hàng nhân thiên cõi Dục không ai sánh bằng. Tiếng nói thanh tốt hơn trời Phạm thế. Tất cả ngôn âm sai biệt của tất cả chúng sanh đều biết, đều hiểu. Thấu rõ chữ nghĩa khéo luận đàm, được trí như huyễn nhập môn phương tiện. Trên thân của nữ nhân này trang sức bằng những chuỗi ngọc báu và những đồ trang nghiêm. Đầu đội mão như ý bảo châu. Lại có vô lượng quyến thuộc vây quanh, đều đồng thiện căn, đều đồng hạnh nguyện, phước đức vô tận. Bà-tu-mật-đa nữ, từ trên thân phóng quang minh quảng đại chiếu khắp cả nhà, tất cả cung điện. Người được ánh sáng này chiếu đến thời thân được mát mẻ. Do công đức tu hành của Bà-tu-mật-đa nên được cảnh trí đẹp đẽ, chánh báo trang nghiêm như thế. Thiện Tài đến đảnh lễ chân Bà-tu-mật-đa nữ, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Bà-tu-mật-đa nữ nói: Này Thiện nam tử! Ta được Bồ-tát giải thoát môn tên là Ly tham dục tế, tùy chỗ sở thích của chúng sanh mà hiện thân. Ly tham dục tế, nghĩa là đến tột mé lìa tham dục. Nếu chư thiên thấy ta, thời ta là thiên nữ xinh đẹp sáng chói. Như vậy nhẫn đến nhân hay phi nhân thấy ta, thời ta là nhân nữ hay phi nhân nữ. Nếu có người vì lòng dục mà đến tìm ta, gặp ta thuyết pháp, họ nghe pháp rồi thời hết tham dục được Bồ-tát vô trước cảnh giới tam-muội. Nếu có chúng sanh tạm thấy ta thời lìa tham dục mà được Bồ-tát hoan hỷ tam-muội. Nếu có chúng sanh tạm cùng ta nói chuyện, thời lìa tham dục mà được Bồ-tát vô ngại âm thanh tam-muội. Nếu có chúng sanh tạm cầm tay ta thời lìa tham dục mà được Bồ-tát tam-muội đến khắp tất cả cõi Phật. Nếu có chúng sanh tạm lên trên chỗ ngồi của ta, thời lìa tham dục mà được Bồ-tát giải thoát quang minh tam-muội. Nếu có chúng sanh tạm nhìn ta thời lìa tham dục mà được Bồ-tát tịch tịnh trang nghiêm tam-muội. Nếu có chúng sanh thấy ta thời lìa tham dục mà được Bồ-tát tồi phục ngoại đạo tam-muội. Nếu có chúng sanh thấy mắt ta nháy, thời lìa tham dục mà được Bồ-tát Phật cảnh giới quang minh tam-muội. Nếu có chúng sanh ôm ta, thời lìa tham dục mà được Bồ-tát tam-muội nhiếp tất cả chúng sanh hằng chẳng bỏ lìa. Nếu chúng sanh nút môi ta thời lìa tham dục mà được Bồ-tát tam-muội tăng trưởng phước đức tạng cho tất cả chúng sanh. Phàm có chúng sanh nào thân cận ta, tất cả đều lìa tham dục mà được nhập Bồ-tát Nhất thiết trí hiện tiền giải thoát vô ngại. Bà-tu-mật-đa được môn Ly tham dục tế, nghĩa là đến tột mé lìa tham dục. Hiện thân ở trong ngũ dục mà không nhiễm ngũ dục, vì vậy những người được gần đều có lợi ích lớn. Đây không giống thiền của Thanh văn, ngồi yên tịnh nơi xa vắng. Phương pháp tu này lấy đại trí đại bi làm tự thể của thiền, ở ngay trong ngũ dục mà tâm không dao động, tự tánh vẫn thanh tịnh. Vì vậy nói thiền định mà không thấy ngồi thiền, xem như đang hưởng những dục lạc của thế gian vậy. Thiện Tài thưa: Đức Thánh gieo căn lành gì, tu phước nghiệp gì mà được thành tựu tự tại như vậy? Bà-tu-mật-đa nữ nói: Này Thiện nam tử! Ta nhớ thuở quá khứ có đức Phật hiệu Cao Hạnh. Đô thành của vua nước ấy tên là Sa-môn. Đức Cao Hạnh Như Lai vào thành Sa-môn, chân Phật đạp lên ngạch cổng thành, liền đó cả thành đều chấn động, bỗng trở nên rộng rãi, trang nghiêm với những châu báu, vô lượng quang minh chiếu suốt lẫn nhau. Những bảo hoa rải khắp mặt đất. Chư thiên âm nhạc đồng thời hòa tấu, tất cả chư thiên sung mãn hư không. Thuở ấy ta là vợ trưởng giả tên là Thiện Huệ, thấy thần lực của Phật, tâm liền giác ngộ. Ta cùng Trưởng giả đến chỗ Phật, dâng lên Phật một bảo tiền. Khi đó Văn-thù-sư-lợi đồng tử đương làm thị giả của đức Phật Cao Hạnh, vì ta mà thuyết pháp, khiến ta phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ-tát ly tham tế này. Như chư đại Bồ-tát thành tựu vô biên trí xảo phương tiện, công đức quảng đại, cảnh giới vô tỷ. Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Quá khứ Bà-tu-mật-đa đã gặp đức Phật Cao Hạnh, phát tâm cúng một đồng tiền báu, nhân đó được Bồ-tát Văn-thù chỉ dạy. Như vậy đồng tiền báu là nhân phát tâm. Vì đồng tiền báu là của báu mà thế gian tham luyến, nhưng bà đã xả bỏ. Do đó ngài Văn-thù vì hướng dẫn chỉ dạy tu hành, tức là từ Căn bản trí dẫn dắt mà được quả ly dục. Tham dục là bệnh nặng nhất của chúng sanh, mà trong ngũ dục thì tham tài đầu tiên rồi mới tới sắc. Cho nên ở đây Bà-tu-mật-đa xả tài trước rồi mới dùng phương tiện chuyển hóa sắc. Dẹp tài và sắc là phá cội gốc của tham dục. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có thành Thiện Độ. Trong thành ấy có cư sĩ Tỳ-sắc-chi-la. Ông ấy thường cúng dường tháp của đức Chiên-đàn Tòa Như Lai. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Bà-tu-mật-đa nữ, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến vị thứ sáu của Thập hồi hướng là Tuỳ thuận yên cứ hồi hướng. Pháp tu thuộc Bát-nhã. Bấy giờ Thiện Tài đi lần về phương Nam, đến thành Thiện Độ, vào nhà cư sĩ Tỳ-sắc-chi-la, đảnh lễ chân cư sĩ, chắp tay thưa rằng: Tỳ-sắc-chi-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Bao Quyết. Vì đây là pháp tu Bát-nhã, dùng trí tuệ trùm khắp nhiếp phục tất cả chúng sanh, nên gọi là bao quyết. Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Cư sĩ nói: Này Thiện nam tử! Ta được môn Bồ-tát giải thoát tên là Bất Bát-niết-bàn tế. Này Thiện nam tử! Ta chẳng nghĩ rằng: Đức Như Lai đó đã nhập Niết-bàn, đức Như Lai đó hiện nhập Niết-bàn, đức Như Lai đó sẽ nhập Niết-bàn. Ta biết mười phương tất cả thế giới chư Phật Như Lai rốt ráo không có đức Phật nào nhập Niết-bàn, chỉ trừ ra khi vì điều phục chúng sanh mà thị hiện thôi. Như trong kinh Bát-niết-bàn nói, nếu một chúng sanh nào rõ biết đức Phật không nhập Niết-bàn, chỉ vì thị hiện giáo hóa chúng sanh mà nhập Niết-bàn, đó là người trí, là người biết được Phật, thấy được Phật. Nếu cho đức Phật có nhập Niết-bàn thì biết người đó không đủ căn tánh Đại thừa, không thấy được Phật. Cho nên vị cư sĩ này được pháp môn Bất Bát-niết-bàn tế, nghĩa là không vào mé Niết-bàn. Do trí tuệ thấu suốt tột cùng, thấy thể tánh chư Phật bất sanh bất diệt, nên nói không nhập Niết-bàn; thấy những hóa thân Phật hoặc sanh hoặc diệt, nên nói chư Phật thị hiện Niết-bàn. Này Thiện nam tử! Lúc ta mở cửa tháp của đức Chiên-đàn Tòa Như Lai, ta liền được tam-muội tên là Phật chủng vô tận. Này Thiện nam tử! Trong mỗi niệm ta nhập tam-muội này, trong mỗi niệm ta biết được vô lượng sự thù thắng. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Tam-muội đó, cảnh giới thế nào? Cư sĩ nói: Này Thiện nam tử! Ta nhập tam-muội này, theo thứ đệ, thấy tất cả chư Phật ở thế giới này. Như là thấy đức Ca-diếp Phật, Câu-na-hàm-mâu-ni Phật, Câu-lưu-tôn Phật, Thi-khí Phật, Tỳ-bà-thi Phật, Đề-xá Phật, Phất-sa Phật, Vô Thượng Thắng Phật, Vô Thượng Liên Hoa Phật. Trong khoảng một niệm được thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, thấy trăm ngàn đức Phật, thấy ức Phật ngàn ức Phật, thấy trăm ngàn ức Phật, thấy a-giu-đa ức Phật, thấy na-do-tha ức Phật. Nhẫn đến thấy bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số Phật. Cũng thấy chư Phật đó lúc mới phát tâm gieo những căn lành, được thắng thần thông, thành tựu đại nguyện, tu hành diệu hạnh, đủ ba-la-mật, nhập Bồ-tát địa, được thanh tịnh nhẫn, xô dẹp quân ma thành Đẳng chánh giác, quốc độ thanh tịnh, chúng hội đạo tràng, phóng đại quang minh, chuyển diệu pháp luân, thần thông biến hiện nhiều thứ sai biệt. Ta đều có thể thọ trì, có thể ghi nhớ, có thể quán sát phân biệt hiển thị tất cả. Thuở vị lai đức Di-lặc Phật v.v... tất cả chư Phật cũng như vậy. Hiện tại đức Tỳ-lô-giá-na Phật v.v... tất cả chư Phật cũng như vậy. Như tại thế giới này, mười phương tất cả thế giới, tất cả tam thế chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát cũng đều như vậy. Này Thiện nam tử! Ta chỉ được môn Bồ-tát giải thoát Bất Bát-niết-bàn tế này. Như chư đại Bồ-tát dùng nhất niệm trí biết khắp tam thế, một niệm vào khắp tất cả tam-muội. Như Lai trí nhật hằng chiếu tâm các ngài. Nơi tất cả pháp không có phân biệt. Biết tất cả Phật thảy đều bình đẳng. Như Lai cùng ta và tất cả chúng sanh bình đẳng không sai khác. Biết tất cả pháp tự tánh thanh tịnh, không tư lự, không động chuyển, mà có thể vào khắp tất cả thế gian, lìa những phân biệt, trụ Phật pháp ấn, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh... Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Trí Bát-nhã thâm sâu thấy suốt tột cùng tất cả, rõ biết chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai không ngằn không lìa; cũng biết luôn cả Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có tòa núi tên là Bổ-đát-lạc-ca. Núi ấy có Bồ-tát tên là Quán Tự Tại. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Bồ-tát Quán Tự Tại ở bản luận khác nói là Bồ-tát Quán Thế Âm. Cư sĩ nói kệ tán thán Bồ-tát Quán Tự Tại để khuyến khích đồng tử Thiện Tài đến tham vấn. Cư sĩ liền nói kệ rằng: Trên biển có núi tên Thánh Hiền Châu báu làm thành rất thanh tịnh Hoa quả rừng cây đều sung mãn Suối chảy ao mát đều đầy đủ. Dũng mãnh Trượng Phu Quán Tự Tại Vì độ chúng sanh ở núi này Ngươi nên đến hỏi các công đức Bồ-tát sẽ dạy đại phương tiện. Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân cư sĩ Tỳ-sắc-chi-la, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đây nói Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm là nói về hạnh đại từ đại bi của Bồ-tát. Trong Thập hồi hướng là vị thứ bảy Đẳng nhất thiết chúng sanh hồi hướng. Pháp tu là Phương tiện ba-la-mật. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhất tâm tư duy lời dạy của cư sĩ. Nhập tạng Bồ-tát giải thoát ấy. Được sức Bồ-tát tùy niệm ấy. Thọ trì thứ lớp danh hiệu của chư Phật ấy. Quán sát diệu pháp của chư Phật ấy nói. Biết chư Phật ấy đầy đủ trang nghiêm. Thấy chư Phật ấy thành Đẳng chánh giác. Rõ bất tư nghì nghiệp của chư Phật ấy. Thiện Tài đi lần đến núi Phổ Đà tìm Bồ-tát Quán Tự Tại. Trong hang đá phía Tây, suối chảy lóng lánh, rừng cây rậm rợp, cỏ thơm mềm nhuyễn trải mặt đất. Đức Quán Tự Tại Bồ-tát ngồi kiết già trên tảng đá kim cang bảo. Xung quanh có vô lượng Bồ-tát cũng ngồi trên bảo thạch. Bồ-tát Quán Tự Tại vì chúng Bồ-tát mà tuyên nói pháp đại từ bi, khiến nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Bồ-tát Quán Tự Tại ở ghềnh đá phía tây trên núi Phổ Đà. Hướng tây là tượng trưng cho hiểm nạn, cực khổ. Tâm đại bi luôn hướng đến chỗ cùng khổ chướng nạn, cho nên Bồ-tát Quán Thế Âm ở phương Tây, Bồ-tát Đại Thế Chí trợ pháp cho đức Phật Di-đà cũng ở phương Tây. Thiện Tài xem thấy vui mừng hớn hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt không nháy, tự nghĩ rằng: Thiện tri thức là Như Lai. Thiện tri thức là mây tất cả pháp. Thiện tri thức là tạng công đức. Thiện tri thức rất khó gặp. Thiện tri thức là nhân duyên sanh Thập lực. Thiện tri thức là đuốc trí vô tận. Thiện tri thức là mầm gốc phước đức. Thiện tri thức là cửa Nhất thiết trí. Thiện tri thức là trí hải đạo sư. Thiện tri thức là công cụ trợ đạo đến Nhất thiết trí. Đây ca ngợi việc được gặp thiện tri thức là điều hết sức hy hữu. Nghĩ xong, Thiện Tài đến chỗ Quán Tự Tại Bồ-tát. Bồ-tát thấy Thiện Tài liền nói: Lành thay Thiện nam tử! Ngươi phát tâm Đại thừa nhiếp khắp chúng sanh. Ngươi khởi tâm chánh trực chuyên cầu Phật pháp. Ngươi có đại bi thâm trọng cứu hộ tất cả. Phổ Hiền diệu hạnh nối tiếp hiện tiền. Đại nguyện thâm tâm viên mãn thanh tịnh. Siêng cầu Phật pháp có thể lãnh thọ tất cả. Chứa nhóm thiện căn hằng không nhàm đủ. Ngươi thuận thiện tri thức chẳng trái lời dạy. Từ biển lớn công đức trí tuệ của Văn-thù-sư-lợi mà sanh. Tâm ngươi thành thục được thế lực của Phật. Đã được tam-muội quang minh quảng đại. Chuyên tâm mong cầu diệu pháp thậm thâm. Thường thấy chư Phật tâm rất hoan hỷ. Trí tuệ thanh tịnh như hư không. Đã tự sáng tỏ lại vì người mà diễn nói. An trụ trí tuệ quang minh của Như Lai. Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Quán Tự Tại Bồ-tát, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Bồ-tát nói: Lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta đã thành tựu Bồ-tát đại bi hạnh giải thoát môn. Này Thiện nam tử! Ta dùng môn Bồ-tát đại bi hạnh này bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sanh tiếp nối chẳng dứt. Này Thiện nam tử! Ta trụ nơi môn đại bi hạnh này thường ở chỗ tất cả chư Phật, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện những sắc bất tư nghì quang minh thanh tịnh để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, làm cho tâm họ tỏ ngộ mà được thành thục. Hoặc vì họ mà hiện thân đồng loại cùng họ ở chung mà thành thục họ. Bồ-tát dùng hạnh Tứ nhiếp pháp, hoặc dùng âm thanh, oai nghi… hiện thân đồng loại để giáo hóa thành thục chúng sanh. Này Thiện nam tử! Ta tu hành môn đại bi hạnh này, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sanh, nguyện tất cả chúng sanh khỏi sợ con đường hiểm, khỏi sợ nhiệt não, khỏi sợ mê hoặc, khỏi sợ trái buộc, khỏi sợ sát hại, khỏi sợ nghèo cùng, khỏi sợ chẳng sống, khỏi sợ tiếng xấu, khỏi sợ sự chết, khỏi sợ đại chúng, khỏi sợ ác thú, khỏi sợ tối tăm, khỏi sợ dời đổi, khỏi sợ ái biệt ly, khỏi sợ oán thù gặp, khỏi sợ thân bức bách, khỏi sợ tâm bức bách, khỏi sợ lo buồn. Ta lại phát nguyện: Nguyện tất cả chúng sanh hoặc nhớ đến ta, hoặc xưng tên ta, hoặc thấy thân ta, thời đều được khỏi tất cả sự bố úy. Này Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện này làm cho chúng sanh khỏi sự bố úy, lại dạy họ phát tâm vô thượng Bồ-đề trọn chẳng thối chuyển. Này Thiện nam tử! Ta chỉ được môn Bồ-tát đại bi hạnh này. Như chư đại Bồ-tát đã thanh tịnh tất cả nguyện Phổ Hiền, đã an trụ tất cả hạnh Phổ Hiền, thường thực hành tất cả thiện pháp, thường nhập tất cả tam-muội, thường trụ tất cả vô biên kiếp, thường biết tất cả tam thế pháp, thường đến tất cả vô biên cõi, thường dứt tất cả chúng sanh ác, thường lớn tất cả chúng sanh thiện, thường tuyệt dòng sanh tử của chúng sanh... Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Bồ-tát kể những phương pháp dạy dỗ và hoá độ chúng sanh vượt qua tất cả hiểm nạn. Bấy giờ phương Đông có Bồ-tát tên là Chánh Thú từ hư không đến thế giới Ta-bà, trên đảnh núi Luân Vi Sơn, Bồ-tát này lấy chân ấn đất. Ta-bà thế giới chấn động sáu cách, biến thành thất bảo trang nghiêm. Chánh Thú Bồ-tát phóng ánh sáng nơi thân che chói tất cả mặt nhật, mặt nguyệt. Tất cả quang minh của thiên, long, bát bộ, Đế-thích, Phạm vương Hộ thế đều như đống mực đen. Đến vị thứ tám trong Thập hồi hướng, là Chân như tướng hồi hướng. Pháp tu thuộc về Nguyện ba-la-mật. Đồng tử Thiện Tài vừa nghe đức Quán Thế Âm dạy xong thì bỗng nhiên Bồ-tát Chánh Thú ở phương Đông từ hư không đến thế giới Ta-bà. Những hình ảnh này tượng trưng cho điều gì? Phương Tây và Bồ-tát Quán Thế Âm tượng trưng tâm từ bi. Phương Đông và Bồ-tát Chánh Thú tượng trưng cho trí tuệ. Trí tuệ thấy biết tự tánh của các pháp là không, nên diễn tả qua hình ảnh Bồ-tát Chánh Thú ở phương Đông từ hư không đến. Hào quang của Bồ-tát này sáng chói che trùm tất cả, để nói lên trí tuệ Bát-nhã không có gì sánh được. Hồi hướng thứ tám này là Chân như tướng hồi hướng, đến đây bi trí phải song hành không lìa, nên các ngài hiện thân cùng đồng một hội. Quang minh của Bồ-tát chiếu khắp tất cả địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Diêm-la vương, làm cho chúng sanh nơi ác đạo hết khổ, chẳng khởi phiền não, đều rời lo buồn. Lại khắp tất cả Phật độ mưa tất cả hoa, hương, anh lạc, y phục, tràng phan, bảo cái, những đồ trang nghiêm để cúng dường chư Phật. Lại tùy sở thích của các chúng sanh mà hiện thân khắp trong tất cả cung điện, ai thấy cũng đều hoan hỷ. Phần này diễn tả hào quang, sự trang nghiêm của Bồ-tát... để nói lên công đức của các ngài. Sau đó Chánh Thú Bồ-tát mới đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ-tát. Quán Tự Tại Bồ-tát bảo Thiện Tài rằng: Ngươi thấy Chánh Thú Bồ-tát đến pháp hội chăng? Người nên đến hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử tuân lời liền đến đảnh lễ chân Chánh Thú Bồ-tát, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo xin chỉ dạy cho. Chánh Thú Bồ-tát nói: Này Thiện nam tử! Ta được Bồ-tát giải thoát môn tên là Phổ môn tốc tật hành. Bởi phương pháp tu này là nguyện, nên Bồ-tát phát thệ nguyện biến khắp mọi nơi, vì vậy môn này tên là Phổ môn tốc tật hành, tức là mau lẹ cùng khắp. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Nơi đức Phật nào được pháp môn này? Cõi của đức Thánh cách đây bao xa? Từ đó đến đây bao lâu? Chánh Thú Bồ-tát nói: Này Thiện nam tử! Việc này khó biết. Tất cả thế gian không thể rõ được. Chỉ trừ chư Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn không thối không khiếp, đã được tất cả thiện hữu nhiếp thọ, chư Phật hộ niệm, thiện căn đầy đủ, chí nguyện thanh tịnh được căn Bồ-tát có mắt trí tuệ, có thể nghe, có thể thọ trì, có thể hiểu, có thể nói. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Tôi thừa thần lực của Phật, của thiện tri thức, có thể tin, có thể thọ. Xin Bồ-tát nói cho. Bồ-tát nói: Này Thiện nam tử! Ta từ Đông phương Diệu Tạng thế giới chỗ đức Phổ Thắng Sanh Phật mà đến cõi này. Ta được pháp môn này ở tại đức Phật ấy. Từ cõi ấy đến đây đã trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Trong khoảng mỗi niệm cất bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số bước. Mỗi bước qua khỏi bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số cõi Phật. Mỗi cõi Phật ta đều vào khắp đến chỗ Phật ngự để cúng dường. Những đồ cúng này đều do tâm vô thượng làm thành, pháp vô tác ấn nên, chư Như Lai hứa khả, chư Bồ-tát khen ngợi. Này Thiện nam tử! Ta lại thấy khắp tất cả chúng sanh trong những thế giới ấy, đều biết tâm của họ, đều biết căn của họ, theo chỗ hiểu của họ mà hiện thân thuyết pháp. Hoặc phóng quang minh, hoặc ban cho của báu, dùng nhiều phương tiện giáo hóa điều phục không thôi nghỉ. Như ở phương Đông, chín phương kia cũng như vậy. Này Thiện nam tử! Ta chỉ được môn giải thoát Bồ-tát phổ tật hành này, có thể mau chóng đến tất cả xứ. Như chư đại Bồ-tát, khắp mười phương không chỗ nào chẳng đến. Trí tuệ cảnh giới đồng nhau không khác. Khéo bủa thân mình khắp pháp giới. Đến tất cả đạo, vào tất cả cõi, biết tất cả pháp, đến tất cả thế, bình đẳng diễn thuyết tất cả pháp môn. Đồng thời chiếu diệu tất cả chúng sanh. Đối với chư Phật chẳng sanh phân biệt. Với tất cả chỗ không bị chướng ngại... Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Bồ-tát Chánh Thú ở phương Đông nơi thế giới Diệu Tạng, chỗ đức Phật Phổ Thắng Sanh. Thế giới Diệu Tạng tượng trưng cho pháp thân. Phật Phổ Thắng sanh tức là từ hạnh vô tác mà sanh, từ hạnh vô tác mà được thành Phật. Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có thành tên là Đọa-la-bát-để. Trong thành có vị thần tên là Đại Thiên. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Chánh Thú Bồ-tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến đây là Vô phược vô tướng giải thoát hồi hướng, tức vị thứ chín trong Thập hồi hướng. Pháp tu thuộc về Lực ba-la-mật. Bấy giờ Thiện Tài nhập Bồ-tát quảng đại hạnh, cầu Bồ-tát trí tuệ cảnh, thấy Bồ-tát thần thông sự, niệm Bồ-tát thắng công đức, sanh Bồ-tát đại hoan hỷ, khởi Bồ-tát kiên tinh tấn, nhập Bồ-tát bất tư nghì tự tại giải thoát, hành Bồ-tát công đức, quán Bồ-tát tam-muội, trụ Bồ-tát tổng trì, nhập Bồ-tát đại nguyện, được Bồ-tát biện tài, thành Bồ-tát lực. Vị thần này tên là Đại Thiên. Thần tượng trưng cho thần dụng, là diệu dụng bất khả tư nghì, chứ không phải thần quyền như mình tưởng tượng. Đại Thiên chỉ cho bản tánh thiên chân. Quả vị này là đến chỗ lực dụng tối cao, nên ở đây dùng hình ảnh thiên thần để tượng trưng. Khi tu hành khế hợp với bản tánh thiên chân, là bản tánh vốn sẵn có của mình, thì lúc ấy phát ra diệu dụng bất tư nghì, gọi đó là thần dụng. Cho nên từ đây về sau phần nhiều là hình ảnh các vị thần, bởi vì đến chỗ này công dụng của Bồ-tát là bất tư nghì, nên thường mượn các vị thần để tượng trưng. Thiện Tài đi lần đến thành Đọa-la-bát-để tìm đến đảnh lễ chân thần Đại Thiên, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Lúc đó Đại Thiên đưa bốn tay hứng lấy nước tứ đại hải rửa mặt mình, cầm bông vàng rải trên mình Thiện Tài mà bảo rằng: Này Thiện nam tử! Tất cả Bồ-tát khó được thấy, khó được nghe, ít hiện ra thế gian, là đệ nhất trong các chúng sanh, là bạch liên hoa trong loài người. Là chỗ nương về của chúng sanh, là chỗ cứu hộ của chúng sanh. Là chỗ an ổn của các thế gian. Là đại quang minh của các thế gian. Chỉ đường chánh an ổn cho kẻ mê lầm. Là đại Đạo sư dẫn các chúng sanh nhập Phật pháp môn. Là đại pháp tướng giỏi thủ hộ thành Nhất thiết trí. Thần Đại Thiên đưa bốn tay hứng lấy nước bốn biển là tượng trưng lấy Tứ nhiếp pháp giáo hóa chúng sanh. Rửa mặt để tượng trưng con mắt tỉnh sáng thanh tịnh. Bồ-tát dùng con mắt trong sáng thanh tịnh quán sát căn cơ chúng sanh, rồi đem Tứ nhiếp pháp mà hóa độ khắp tất cả. Bồ-tát như vậy rất khó gặp gỡ được. Chỉ có người thân, khẩu, ý ba nghiệp không lỗi mới thấy được hình tượng của chư Bồ-tát và nghe biện tài của các ngài thuyết pháp, tất cả thời gian thường hiện ra trước. Chúng ta thường nghe nói Bồ-tát hiện ra vì chúng sanh, ai có bệnh gì các ngài đều tùy bệnh mà giáo hóa. Nhưng ở đây vị thần này nói Bồ-tát khó gặp, chỉ người ba nghiệp thân khẩu ý không lỗi mới thấy được. Như vậy Bồ-tát có bình đẳng không? Bồ-tát lúc nào cũng bình đẳng, nhưng tùy theo nhân duyên của chúng sanh, có duyên các ngài mới độ được. Như mặt trăng rọi bóng xuống hồ cùng khắp, không lựa chọn riêng một hồ nào. Tuy nhiên hồ nước trong thì bóng trăng hiện tỏ, hồ nước đục thấy mờ mờ, hồ bị bèo che khuất thì không thấy bóng mặt trăng. Thử hỏi mặt trăng bình đẳng hay bất bình đẳng? Nếu bình đẳng sao các hồ không hiện như nhau? Nói bất bình đẳng cũng không được, vì mặt trăng chiếu soi khắp cả. Lỗi không phải ở mặt trăng mà tại các hồ nước trong đục không đồng. Cũng vậy chư Phật, Bồ-tát lúc nào cũng bình đẳng với tất cả chúng sanh, nhưng người nào ba nghiệp thanh tịnh thì mới thấy, mới được giáo hóa. Người nào ba nghiệp không thanh tịnh, nhiều phiền não thì không thể thấy Phật Bồ-tát. Kinh nói Phật hóa hữu duyên nhân. Người có duyên với Phật, Phật mới độ được. Vì sao? Thí dụ tôi đang nói pháp ở đây, tâm tôi luôn muốn ai cũng được nghe, nhưng cùng trong một pháp hội mà có người nghe hiểu áp dụng tu hành, có người nghe không hiểu hoặc không nghe được lời nào, tùy theo duyên sai khác của mỗi người. Bồ-tát thực hành lòng từ bình đẳng không có tâm thiên lệch, sở dĩ có chúng sanh không đón nhận được vì duyên của họ quá xấu, khiến cho không mến thích, không gần gũi, rời xa chỗ có thiện tri thức để gần nơi xấu ác. Đó là do duyên nghiệp của chúng ta, chứ không phải lỗi ở Phật Bồ-tát. Này Thiện nam tử! Ta đã thành tựu Bồ-tát giải thoát tên là Vân Võng. Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh giới của Vân Võng giải thoát thế nào? Lúc đó Đại Thiên, ở trước Thiện Tài, thị hiện đống vàng, đống bạc, đống lưu ly, đống pha lê, đống xà cừ, đống mã não, đống hỏa diệm bảo, đống ly cấu tạng bảo, đống đại quang minh bảo, đống phổ hiện thập phương bảo, đống bảo quan, đống bảo ấn, đống bảo anh lạc, đống khoen tai báu, đống bảo xuyến, đống vòng đeo tay báu, đống bảo châu võng, đống ma-ni bảo, đống tất cả đồ trang nghiêm, đống như ý ma-ni. Tất cả đều lớn như núi to. Đại Thiên lại thị hiện tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả y phục, tất cả tràng phan, tất cả âm nhạc, tất cả đồ vui ngũ dục. Mỗi mỗi đều chứa cao như núi. Lại hiện vô số trăm ngàn vạn ức chúng đồng nữ. Đại Thiên bảo Thiện Tài rằng: Này Thiện nam tử! Nên đem những vật này cúng dường đức Như Lai, tu các phước đức và thí cho chúng sanh để nhiếp thủ họ, cho họ tu học Đàn ba-la-mật, có thể xả được thứ khó xả. Bồ-tát hiện ra các thứ để chỉ cho Thiện Tài thấy khả năng của ngài. Này Thiện nam tử! Như ta vì ngươi mà thị hiện những vật này, dạy ngươi làm việc bố thí, ta vì chúng sanh khác cũng như vậy. Đều khiến dùng thiện căn này để huân tập, cung kính cúng dường Tam bảo và thiện tri thức, thêm lớn pháp lành, phát tâm vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh tham chấp ngũ dục tự phóng dật, thời ta vì họ mà thị hiện cảnh giới bất tịnh. Nếu có chúng sanh sân hận kiêu mạn nhiều cạnh tranh, thời ta vì họ mà thị hiện thân hình rất đáng sợ như la-sát uống huyết ăn thịt v.v... cho họ xem thấy mà kinh hãi, tâm ý điều nhu rời bỏ thù oán. Nếu có chúng sanh hôn trầm lười biếng, thời ta vì họ mà thị hiện những nạn vua, giặc, nước, lửa và các bệnh tật, cho họ kinh sợ biết khổ lo để họ tự cố gắng. Ta dùng những phương tiện như vậy, khiến chúng sanh bỏ những hạnh bất thiện mà tu pháp lành, trừ tất cả chướng ba-la-mật để đầy đủ ba-la-mật. Khiến họ vượt khỏi tất cả đường hiểm chướng ngại mà đến chỗ vô ngại. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Vân Võng này. Như chư đại Bồ-tát, dường như Đế-thích đã có thể dẹp trừ tất cả quân a-tu-la phiền não. Dường như đại thủy có thể khắp tiêu diệt lửa phiền não của tất cả chúng sanh. Dường như lửa mạnh có thể khô cạn nước ái dục của tất cả chúng sanh. Dường như đại phong có thể thổi ngã tràng kiến thủ của tất cả chúng sanh. Dường như kim cang có thể phá vỡ núi ngã kiến của tất cả chúng sanh... Ta thế nào biết được, nói được công đức diệu hạnh đó. Nếu chúng sanh chấp mê dục lạc, buông lung thân tâm thì ngài thị hiện cảnh giới bất tịnh. Hoặc đối các chúng sanh sân hận, si mê… ngài đều tuỳ phương tiện làm cho họ sợ hãi, biết khổ mà rời bỏ những điều bất thiện, hướng tâm vượt thoát đến chỗ vô ngại. Này Thiện nam tử! Ở nước Ma-kiệt-đà, trong Bồ-đề Tràng có Chủ địa thần tên là An Trụ. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân thần Đại Thiên, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ mà đi. Đây là vị thứ mười Đẳng pháp giới hồi hướng trong Thập hồi hướng. Pháp tu thuộc về Trí ba-la-mật. Thiện Tài qua nước Ma-kiệt-đà nơi Bồ-đề Tràng, chỗ của địa thần An Trụ cùng ở với trăm vạn địa thần. Địa thần tên An Trụ, ở nước Ma-kiệt-đà, nơi Bồ-đề Tràng. Bồ-đề Tràng là nơi giác ngộ của đức Phật, tức nói về vị trí. An Trụ là chỉ cho trí và bi thường tịch tịnh. Vị thần ở đoạn trước là thiên thần, vị thần kế tiếp này là địa thần. Thiên thần chỉ cho trí tuệ, địa thần chỉ cho từ bi. Bi trí viên mãn, tượng trưng trời và đất. Người ta thường nói trời che đất chở là để biểu hiện sự an lành tốt đẹp. Như vậy ở hai phần hồi hướng cuối cùng này là nói lên sự viên mãn, bi trí hoà hợp trong tịch tịnh. Chư thần bảo nhau: Đồng tử đến kia chính là Phật tạng. Tất sẽ vì khắp tất cả chúng sanh mà làm chỗ sở y. Tất đã khắp phá vỡ lốt vỏ vô minh của tất cả chúng sanh. Người này đã sanh trong dòng Pháp vương. Sẽ dùng lụa pháp vô ngại ly cấu để vấn đầu. Sẽ mở kho trí tuệ trân bảo lớn. Sẽ xô dẹp tất cả tà luận dị đạo. Lúc đó An Trụ và trăm vạn địa thần phóng quang minh lớn chiếu khắp cõi Đại thiên, làm khắp đại địa đồng thời chấn động. Nơi nơi trang nghiêm với những bảo vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời sanh lớn, tất cả bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng nước chảy rót lẫn nhau, tất cả ao đầm đều đầy nước. Trời mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi rải hoa khắp nơi. Vô số âm nhạc đồng thời trổi. Đồ trang nghiêm đều vang tiếng diệu. Những Ngư vương, Tượng vương, Sư tử vương v.v... đều vui mừng nhảy nhót rống gầm như núi to chạm nhau vang tiếng lớn. Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên. Những vị thần ở chỗ địa thần An Trụ khen ngợi đồng tử Thiện Tài đầy đủ công đức, đầy đủ quả báo tốt đẹp. An Trụ địa thần bảo Thiện Tài: Lành thay đồng tử! Tại chỗ này ngươi đã từng gieo thiện căn. Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy chăng? Thiện Tài liền đảnh lễ chân Địa thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi muốn được thấy. Địa thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số bảo tạng tự nhiên trồi lên. Rồi bảo rằng: Này Thiện nam tử! Những bảo tàng này theo ngươi luôn. Đây là quả báo do thiện căn thuở xưa của ngươi. Đây là phước lực của ngươi nhiếp thọ. Ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng. Chỗ này nghe huyền bí quá! Địa thần ấn chân xuống đất bao nhiêu kho tàng châu báu đều hiện ra, rồi bảo đó là phước đức thiện căn nên lấy đó mà sử dụng. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì đồng tử Thiện Tài đi tham vấn đến đây đã qua ba mươi vị thiện tri thức, nói theo sự tu hành từ tâm là ngài đã trải qua ba mươi quả vị, công đức lúc này đã lớn cho nên Địa thần nói, những bảo tàng này theo ngươi luôn. Bởi vì nhân tu năng lễ chúng sanh thì quả phước báu lúc nào cũng đầy đủ, tuỳ ý tự tại thọ dụng. Trên sự tu hành công quả theo nhau, phát tâm là có nhân, mà có nhân thì tất nhiên có quả. Chắc chắn như vậy. Này Thiện nam tử! Ta được Bồ-tát giải thoát tên là Bất khả hoại trí tuệ tạng. Ta thường dùng pháp này để thành tựu chúng sanh. Vì hạnh tu Trí ba-la-mật nên được môn Bất khả hoại trí tuệ tạng, nghĩa là kho trí tuệ không gì phá hoại được. Này Thiện nam tử! Ta nhớ từ Phật Nhiên Đăng đến nay, ta thường theo Bồ-tát cung kính thủ hộ, quán sát Bồ-tát chỗ có những tâm hành, cảnh giới trí tuệ, tất cả thệ nguyện, những hạnh thanh tịnh, tất cả tam-muội, thần thông quảng đại, thần lực tự tại, những pháp bất hoại, qua khắp tất cả Phật độ, được khắp tất cả Như Lai thọ ký, chuyển pháp luân của tất cả chư Phật, diễn rộng tất cả môn tu-đa-la, đại pháp quang minh soi sáng khắp nơi, giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, thị hiện thần biến của tất cả chư Phật. Tất cả những công đức như trên của Bồ-tát ta đều có thể lãnh thọ, đều có thể ghi nhớ. Này Thiện nam tử! Thuở xưa quá Tu-di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên Trang Nghiêm, thế giới tên Nguyệt Tràng, Phật hiệu Diệu Nhãn. Chính ở chỗ đức Phật Diệu Nhãn mà ta được pháp môn này. Này Thiện nam tử! Ta ở nơi pháp môn này hoặc nhập, hoặc xuất, tu tập tăng trưởng thường thấy chư Phật chưa từng bỏ rời. Từ lúc mới được nhẫn đến Hiền kiếp này, khoảng thời gian đó ta gặp bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai Đẳng chánh giác. Ta đều phụng thờ cung kính cúng dường. Ta cũng thấy chư Phật ngồi tòa Bồ-đề hiện đại thần lực. Cũng thấy những công đức thiện căn của chư Phật. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn “Bất khả hoại trí tuệ tạng” này. Như chư đại Bồ-tát thường theo chư Phật, có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật, vào trí tuệ thậm thâm của chư Phật, mỗi niệm đầy khắp tất cả pháp giới, đồng thân Như Lai, sanh tâm chư Phật, đủ pháp chư Phật, làm những Phật sự... Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó. Đoạn này Địa thần nói về khả năng của mình, làm sao được pháp môn đó và lợi ích như thế nào. Này Thiện nam tử! Trong thành Ca-tỳ-la có Chủ dạ thần tên là Bà-san-bà-diễn-để. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Địa thần hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Ở trước đã nói qua Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, ba phần này đều lấy trí tuệ dẫn đầu, từ bi là phụ thuộc. Đến đây là bước vào Thập địa, từ Thập địa trở về sau thì lấy từ bi dẫn đầu, trí tuệ phụ thuộc. Vì vậy phần nhiều dùng hình ảnh tượng trưng là người nữ, những Chủ dạ thần toàn là người nữ, để nói lên ý nghĩa đại bi. Bởi vì muốn đầy đủ công hạnh Bồ-tát để tiến lên Phật quả thì phải nghĩ tới giác ngộ của chúng sanh, để cho công đức được viên mãn. Cho nên hàng Bồ-tát Thập địa lấy lợi ích chúng sanh làm đầu, nên nói từ bi dẫn đầu. Lòng đại bi của Bồ-tát là cốt phá tối đêm dài sanh tử của chúng sanh, làm sao cho chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi dòng sanh tử mà bao kiếp đã lăn lộn trong đó, vì vậy tượng trưng qua hình ảnh Chủ dạ thần. Chủ dạ thần là vị thần chủ ban đêm. Bà-san-bà-diễn-để là âm tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Chủ Đêm Xuân Sanh. Đêm xuân sanh nghĩa là hay sanh các giới thiện. Chủ dạ thần này tượng trưng cho các điều thiện, hay làm cho chúng sanh phát khởi căn lành. Dùng mặt trời trí tuệ phá tối đêm dài sanh tử của chúng sanh. Như trước đã nói, thần là để chỉ cho diệu dụng khôn lường. Bồ-tát tới quả vị này rồi thì diệu dụng lợi ích chúng sanh vô cùng, không thể dùng tâm trí phàm tục mà lường biết được, nên gọi là thần. Thân của vị thần này có tất cả tinh tú hiện trong đó, để nói lên ý nghĩa khi tu tiến lên hàng Thập địa là đã thấu được pháp thân viên mãn. Vì thấu được pháp thân nên hiện khắp mười phương pháp giới. Thân của Bồ-tát trùm khắp mười phương, chứ không phải như thân của chúng ta, chỉ ở trong một phạm vi nào thôi. Đây nói, trong mỗi lỗ chân lông trên thân Dạ thần đều hiện ra những cảnh giới, để hóa độ vô lượng vô số chúng sanh, nhằm tượng trưng cho bi và trí của Bồ-tát vô lượng vô biên, nên độ chúng sanh cũng vô lượng vô biên. Bấy giờ Thiện Tài nhất tâm tư duy lời dạy của An Trụ địa thần, ghi nhớ môn Bồ-tát bất khả trở hoại trí tạng giải thoát, tu tam-muội đó, học quỹ tắc đó, quán sát thần thông du hý đó, nhập vi diệu đó, được trí tuệ đó đạt bình đẳng đó, biết vô biên đó, lường thậm thâm đó. Sau khi rời chỗ Địa thần ra đi, đồng tử Thiện Tài nhớ lại lời dạy của địa thần An Trụ, tư duy tu tập pháp môn đó đầy đủ. Đi lần đến thành Ca-tỳ-la vào cửa đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu thì trời tối. Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ-tát, khát ngưỡng muốn được thấy Chủ dạ thần, nơi thiện tri thức tưởng như Phật. Thiện Tài lại nghĩ rằng: Nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thoát thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam-muội nhãn quán sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được trí tuệ nhãn soi sáng mười phương sát hải. Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không, Dạ thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bảo lâu các. Thân màu chân kim, mắt và tóc xanh biếc, hình nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu đội mão Phạm thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân. Đồng tử Thiện Tài đến thành Ca-tỳ-la vào cửa đông, đứng chờ chẳng bao lâu thì trời tối. Ngài nhớ lại lời dạy của thiện tri thức, nhờ đó mà được Phổ biến nhãn cho đến Trí tuệ nhãn thấu suốt mười phương. Vừa nghĩ như vậy thì ngay lúc ấy Dạ thần hiện ra. Chủ dạ thần là vị thần chủ ban đêm, nghĩa là chủ về sự hướng dẫn chúng sanh trong đêm tối vô minh mờ mịt. Vì vậy nếu người sáng suốt không còn vô minh thì không cần ngài. Đồng tử Thiện Tài đến đây thì tối, tức là còn vô minh, cho nên Chủ dạ thần từ hư không hiện ra để giáo hóa. Ngài ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử, để chỉ cho Bồ-tát đến quả vị này rồi thì tuy ở thế gian mà không nhiễm thế gian, luôn luôn dùng pháp bất sanh bất diệt của chư Phật để giáo hóa chúng sanh. Thân của Chủ dạ thần màu chân kim, tóc xanh biếc thân v.v... tả nét đẹp từ phúc đức của ngài tạo nên. Đây là tùy theo phong tục của mỗi nước mà tả nét đẹp của các vị thần. Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ thần đều hiện hóa độ vô lượng vô số chúng sanh ở ác đạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiểm nạn. Những chúng sanh này, hoặc sanh nhân gian, hoặc sanh lên trời, hoặc xu hướng Nhị thừa Bồ-đề, hoặc tu hành đạo Nhất thiết trí. Lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa: Hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Bồ-tát hạnh, Bồ-tát dũng mãnh, Bồ-tát tam-muội, Bồ-tát tự tại, Bồ-tát trụ xứ, Bồ-tát quán sát, Bồ-tát sư tử tần thân, Bồ-tát giải thoát du hý. Thị hiện những phương tiện thành thục chúng sanh như vậy. Thiện Tài thấy và nghe những sự trên đây, lòng rất vui mừng, đảnh lễ nơi chân Dạ thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo Nhất thiết trí, tôi đi trong đó đến bậc Thập lực. Sau khi Thiện Tài thấy nghe những sự trên đây rồi ngài vui mừng đảnh lễ thưa. Sau khi ngài thưa thỉnh Dạ thần mới bảo Thiện Tài, đây là lời giải thích mà cũng nói công hạnh của Bồ-tát cho chúng ta thấy. Dạ thần bảo Thiện Tài rằng: Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Ngươi có thể thâm tâm kính thiện tri thức, thích nghe lời dạy và tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được vô thượng Bồ-đề. Chư Phật và Bồ-tát đều dạy chúng ta, sở dĩ được vô thượng Bồ-đề là nhờ vào sự tu hành chứ không phải chỉ nói lý giải suông. Nên nói do tu hành nên quyết định sẽ được vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Bồ-tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám. Đến đây chúng ta thấy rõ, môn giải thoát của ngài được tên là Bồ-tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám, cho nên mượn hình ảnh tượng trưng là Chủ dạ thần. Này Thiện nam tử! Ta ở nơi chúng sanh ác tuệ khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỷ, nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị, nơi chúng sanh tạp nhiễm ta khởi tâm làm cho họ thanh tịnh, nơi chúng sanh tà đạo ta khởi tâm làm cho họ sanh chánh hạnh, nơi chúng sanh hiểu biết kém ta khởi tâm làm cho họ được trí sáng suốt, nơi chúng sanh mến sanh tử ta khởi tâm làm cho họ bỏ luân chuyển, nơi chúng sanh an trụ Nhị thừa ta khởi tâm làm cho họ trụ Nhất thiết trí. Bồ-tát hàng Sơ địa nặng về bố thí, nên đoạn này nói về hạnh bố thí. Ngài đối với chúng sanh, nếu có ác tuệ thì khởi tâm đại từ để cảm hóa họ, dứt trừ những hiểu biết ác. Nơi chúng sanh bất thiện ngài khởi lòng đại bi độ thoát họ. Bồ-tát thấy người làm ác thì thương, vì làm ác là gây nhân đau khổ sẽ chịu quả đau khổ. Nơi chúng sanh làm lành các ngài khởi tâm đại hỷ. Hàng phàm phu thúng ta thì ngược lại, thấy chúng sanh làm ác oán ghét nổi sân, thấy chúng sanh làm lành thì đố kỵ... do đó trở thành phiền não bất lợi cho mình. Nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị. Tâm bất nhị là tâm bình đẳng, không có cả hai thiện và ác. Nơi chúng sanh tạp nhiễm khởi tâm làm cho họ thanh tịnh, thấy người theo tà thì cố làm sao cho họ trở về đường chánh. Chúng sanh hiểu biết kém, khởi tâm làm cho họ được trí sáng suốt. Chúng sanh mến sanh tử ưa luân hồi thì khởi tâm làm cho họ dứt bỏ luân hồi. Nơi chúng sanh an trụ Nhị thừa, khởi tâm làm cho họ trụ Nhất thiết trí. Đó là Bồ-tát tu hạnh bố thí, để khuyên giúp tất cả chúng sanh, làm cho họ đều được cứu độ. Này Thiện nam tử! Vì ta được môn giải thoát này nên thường tương ứng với những tâm như vậy. Này Thiện nam tử! Đêm tối yên lặng, lúc quỷ thần, trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kín, sương dày, gió to, mưa lớn, nhật nguyệt tinh tú đều tối tăm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hãi lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ. Đoạn này diễn tả tương tự thí dụ nhà lửa trong kinh Pháp Hoa. Đêm tối, mây kín, sương dày, gió to, mưa lớn, nhật nguyệt tinh tú thảy đều tối tăm. Những kẻ lạc trong rừng, hoặc giữa biển khơi, hoặc trong đất liền... nơi chỗ hiểm nạn mờ mịt không biết lối ra, ngài liền vì họ mà làm phương tiện khiến hết kinh hãi. Đây là Bồ-tát bố thí vô úy. Vì chúng sanh bị nạn nơi biển mà hiện làm lái thuyền, làm ngư vương, mã vương, quy vương, tượng vương, a-tu-la vương, hải thần, vì họ mà ngăn mưa gió, dứt sóng mòi, dắt đường chỉ bờ cho họ thoát nạn. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh đều được khỏi khổ. Nếu người bị nạn ngoài biển thì ngài dùng những phương tiện chỉ đường đưa họ thoát nạn, nguyện đem thiện căn cho tất cả chúng sanh. Vì chúng sanh đi trong lục địa, đêm tối bị nạn mà hiện mặt nhật, mặt nguyệt, tinh tú, ráng ban mai, chớp đêm tối, cho họ thấy ánh sáng, nhẫn đến hiện làm nhân chúng nhà cửa, cho họ được khỏi nạn khủng bố. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh thoát khỏi màn tối phiền não. Những chúng sanh tiếc thân mạng, chuộng danh tiếng, ham của báu, trọng quyền tước, đắm nam nữ, luyến thê thiếp, mà chưa toại theo sở cầu phải lo sợ, thì ta đều cứu giúp cho họ khỏi khổ. Vì người đi trên núi hiểm mà bị nạn, thì ta làm thiện thần hiện hình thân cận, hoặc hiện làm chim đẹp kêu hót cho họ được vui, hoặc hiện làm linh dược soi sáng cho họ thấy cây trái, chỉ cho họ suối ngọt, chỉ cho họ đường sá bằng phẳng để họ thoát ách nạn. Chúng sanh đi trên núi non hiểm trở, các ngài phương tiện tuỳ hiện để dẫn đường chỉ lối cho họ thoát nạn. Vì người bị nạn nơi đồng hoang rừng rậm mà hiện ra chỉ đường cho họ. Nguyện tất cả chúng sanh đốn rừng rậm kiến chấp, chặt lưới tham ái, thoát đồng sanh tử, diệt tối phiền não, vào đường bằng thẳng Nhất thiết trí, đến chỗ vô úy rốt ráo an lạc. Ngài chỉ lối ra khỏi đồng hoang, luôn nguyện chúng sanh đốn được rừng rậm kiến chấp, diệt tối phiền não, vào đường bằng phẳng để được Nhất thiết trí, rốt ráo an lạc. Thuở xưa ngài Đường Huyền Trang đi Ấn Độ thỉnh kinh, tới sa mạc hết lương thực hết nước, tình hình nguy khốn. Ngài chí thành tưởng Bồ-tát Quán Thế Âm, sau đó ngất xỉu. Bỗng một cơn gió mát thổi tới, ngài liền tỉnh táo khỏe mạnh trở lại, tìm ra nước uống và tiếp tục cuộc hành trình. Nếu không phải là diệu lực của Bồ-tát, làm sao thoát khỏi nạn chết. Nhiều người hiểu việc này cạn cợt thành ra mê tín. Ỷ lại vào tha lực của Bồ-tát. Nếu hiểu đúng đắn, biết rõ khi lòng chí thành vì đạo, sẽ cảm ứng với nguyện lực của Bồ-tát, nguy hiểm gì cũng có thể qua được. Nguyện lực của Bồ-tát sẵn sàng cứu độ chúng sanh, với điều kiện chúng sanh có cảm, các ngài mới có ứng. Chúng ta không thật tâm vì đạo, sẽ không cảm ứng với Bồ-tát, khó thoát khỏi khổ nạn. Chúng ta tu mà cứ nơm nớp lo sợ, sợ rắn sợ cọp, sợ đói sợ rách, sợ bệnh sợ chết... rốt cuộc chính cái sợ đó làm mình không tu hành gì được. Người tu phải gan dạ, sống vì đạo không cần gì hết, nhất tâm nhất trí tu. Người xưa vô rừng tiến tu cho đạt đạo quả, chúng ta bây giờ yếu đuối khiếp nhược, tâm loạn cả ngày làm sao đạt đạo quả. Đó là bệnh của người thời nay. Này Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà cửa mà thường ở chỗ tối tăm bị khổ, thì ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyện tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành Nhất thiết trí. Lục trần là chỉ cho sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tụ lạc là chỉ cho những chỗ tụ họp đông đảo. Tụ lạc, lục trần là chỉ cho những chúng sanh còn đắm nhiễm trong trần tục. Các ngài nguyện cho họ thức tỉnh không còn đắm nhiễm nữa. Này Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh đi đêm tối quên mất phương hướng, lạc đường lo sợ. Ta dùng phương tiện soi sáng cho họ. Nếu là người muốn ra khỏi thì ta chỉ cửa nẻo, người muốn đi thì ta chỉ đường sá, người muốn qua sông thì ta chỉ cầu đò, người muốn đi sông biển thì ta cho thuyền bè, người thích xem phương hướng thì ta chỉ cho họ chỗ an nguy hiểm dễ, người muốn nghỉ ngơi thì ta chỉ cho họ thành ấp cội cây. Đó là phương tiện của Bồ-tát giáo hóa chúng sanh. Ta nghĩ rằng: Như ở tại đây ta trừ đêm tối làm cho những thế sự đều được thứ tự hiển bày. Ngài thực hành trừ đêm tối, làm cho thế sự thứ tự hiển bày, khiến người thấy rõ sự thật hiển bày, không còn mờ mịt vô minh nữa. Nguyện ta dùng ánh sáng trí tuệ soi rõ khắp những chỗ tối tăm vô minh, đêm dài sanh tử. Ngài là hiện thân của trí tuệ sáng suốt phá tan vô minh tăm tối, khiến cho người không đi trong đêm dài sanh tử, nên gọi là Chủ dạ thần. Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi tâm tưởng kiến chấp điên đảo: Vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh, chấp chặt những ngã nhân, chúng sanh, uẩn, xứ, giới, mê lầm nhân quả, chẳng biết thiện ác, sát hại chúng sanh, nhẫn đến tà kiến, chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa-môn, Bà-la-môn, chẳng biết người ác, người lành, ham ác sự, trụ pháp tà, hủy báng Như Lai, phá hoại chánh pháp, sỉ nhục thương hại chư Bồ-tát, khinh đạo Đại thừa, dứt tâm Bồ-đề, hại người ơn, oán kẻ thù, khinh rẻ hiền thánh, gần gũi bạn ác, trộm vật của chùa tháp, làm tội ngũ nghịch, chẳng bao lâu sẽ bị đọa ba ác đạo. Nguyện tôi mau dùng ánh sáng đại trí phá màn tối vô minh của những chúng sanh đó, khiến họ mau phát tâm vô thượng Bồ-đề. Họ đã phát tâm, tôi liền chỉ hạnh Phổ Hiền, mở đường Thập lực, chỉ cảnh giới Như Lai Pháp vương, cũng hiển thị thành trì Nhất thiết trí của chư Phật. Chư Phật thực hành, chư Phật tự tại, chư Phật thành tựu, chư Phật tổng trì, tất cả chư Phật chung đồng một thân, tất cả chư Phật bình đẳng một chỗ, đều làm cho họ được an trụ. Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh hoặc bị bệnh buộc ràng, hoặc bị già xâm lấn, hoặc khổ vì nghèo cùng, hoặc gặp hoạn nạn, hoặc phạm pháp vua bị gia hình, ta đều cứu giúp cho họ được an ổn. Ta lại nghĩ rằng: Nguyện dùng chánh pháp nhiếp khắp chúng sanh cho họ giải thoát tất cả phiền não, sanh già bệnh chết, ưu bi khổ hoạn. Thường được gần thiện tri thức, thực hành pháp thí, siêng tu hạnh lành, mau được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, an trụ nơi rốt ráo không biến đổi. Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh vào rừng kiến chấp, trụ nơi đạo tà, nơi các cảnh giới khởi tà phân biệt, thân khẩu ý thường làm sự bất thiện, vọng làm những sự khổ hạnh. Nơi chẳng phải Chánh giác tưởng là Chánh giác. Nơi Chánh giác tưởng là chẳng phải Chánh giác. Bị ác tri thức nhiếp thọ. Do họ khởi ác kiến sắp đọa ác đạo, ta dùng nhiều môn phương tiện cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi chánh kiến sanh trong nhân thiên. Lại tự nghĩ rằng: Như ta cứu những chúng sanh sắp đọa ác đạo, nguyện ta cứu tất cả chúng sanh, đều làm cho họ giải thoát tất cả khổ, an trụ nơi ba-la-mật Thánh đạo xuất thế. Nguyện ta được chẳng thối chuyển nơi Nhất thiết trí, đủ nguyện Phổ Hiền, gần Nhất thiết trí, chẳng rời bỏ hạnh Bồ-tát, thường siêng giáo hóa tất cả chúng sanh. Bồ-tát đại bi đại nguyện vì lợi ích chúng sanh muốn cho chúng sanh giải thoát sanh tử, nên tùy phương tiện giáo hóa để được an ổn. Tâm nguyện của Bồ-tát cốt làm sao cho tất cả chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử. Bấy giờ, Bà-san-bà-diễn-để Chủ dạ thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng: Môn giải thoát của ta Sanh tịnh pháp quang minh Phá được tối ngu si Chờ thời mà diễn thuyết. Môn giải thoát của ngài là tịnh pháp quang minh bay phá tan ngu tối của chúng sanh, tùy thời mà diễn thuyết giáo hóa. Chư Bồ-tát giáo hóa chúng sanh đều lấy trí tuệ diệt trừ ngu mê cho họ. Ta từ vô biên kiếp Siêng tu đại từ tâm Che chở khắp thế gian Phật tử nên tu học. Ngài che chở khắp cả thế gian là nhờ chuyên tâm tu hạnh từ bi, chúng ta nên học theo gương hạnh ấy. Biển đại bi tịch tịnh Xuất sanh tam thế Phật Hay diệt khổ chúng sanh Ngươi nên nhập môn này. Chư Phật sở dĩ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là do đầy đủ công hạnh trí tuệ và từ bi. Nên nói biển đại bi tịch tịnh sanh ra ba đời chư Phật hay diệt khổ cho chúng sanh. Thiện Tài nên học pháp đó. Hay sanh thế gian vui Cũng sanh vui xuất thế Khiến lòng ta hoan hỷ Ngươi nên nhập môn này. Lòng từ bi làm thế gian được vui, từ bi cũng khiến chúng sanh vui đạo xuất thế, vì vậy ngài rất hoan hỷ. Đã bỏ họa hữu vi Cũng xa Thanh văn quả Tịnh tu chư Phật lực Ngươi nên nhập môn này. Không mắc kẹt hữu vi, cũng không mắc kẹt quả Thanh văn, chuyên tu Phật lực để đầy đủ Thập lực của Phật. Mắt ta rất thanh tịnh Thấy khắp mười phương cõi Cũng thấy Phật trong đó Ngồi dưới cây bồ-đề. Do lòng từ bi độ thoát chúng sanh, bên trong trí tuệ viên mãn đại bi đầy đủ, bên ngoài làm lợi ích tất cả chúng sanh. Cho nên được sáu căn thanh tịnh. Trước hết là mắt thanh tịnh thấy khắp mười phương, thấy chư Phật ngồi dưới cội bồ-đề. Thân tướng tốt trang nghiêm Vô lượng chúng câu hội Trong mỗi lỗ chân lông Phóng ra nhiều tia sáng. Thấy những loài quần sanh Chết đây mà sanh kia Luân hồi trong năm loài Thường thọ vô lượng khổ. Do mắt thanh tịnh thấy được Phật, chúng tăng và cội gốc luân hồi sanh tử của chúng sanh từ đâu ra, phải chịu quả báo thế nào... Đó là công năng của con mắt thanh tịnh. Tai ta rất thanh tịnh Nghe thấu đến mười phương Tất cả biển ngữ ngôn Đều nghe hay ghi nhớ. Chư Phật chuyển pháp luân Tiếng Phật diệu vô tỷ Bao nhiêu những văn tự Đều có thể ghi nhớ. Tai nghe khắp cả mười phương, bao nhiêu ngữ ngôn của chúng sanh nhiều như biển đều rõ biết. Nghe được tiếng Phật, thông hết tất cả các thứ văn tự ở thế gian. Mũi ta rất thanh tịnh Nơi pháp không chướng ngại Tất cả đều tự tại Ngươi nên nhập môn này. Mũi rất thanh tịnh, đối với pháp không bị chướng ngại, tất cả đều được tự tại. Lưỡi ta rất rộng dài Sạch tốt hay nói năng Tùy nghi diễn diệu pháp Ngươi nên nhập môn này. Lưỡi ngài rộng dài sạch, hay nói năng diễn bày diệu pháp. Thân ta rất thanh tịnh Tam thế đồng như như Tùy tâm các chúng sanh Tất cả thảy đều hiện. Thân đây là chỉ cho pháp thân, không phải thân phàm tục nên rất thanh tịnh. Tam thế đồng như như, nghĩa là ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đối với pháp thân không sanh không diệt nên nói là như như. Tuy không sanh không diệt mà tùy theo tâm chúng sanh ứng hiện tất cả. Tâm ta tịnh vô ngại Như không chứa muôn vật Khắp nhớ tất cả Phật Mà cũng chẳng phân biệt. Tâm của ngài biết tất cả các pháp vô ngại, thấy hết tất cả chư Phật mà không khởi niệm phân biệt. Biết rõ vô lượng cõi Tất cả biển tâm tánh Các căn và dục lạc Mà cũng chẳng phân biệt. Biết mà không phần biệt đối đãi, như cả bầu trời đều hiện bóng trong biển mà biển không phân biệt. Tuy không phân biệt mà đầy đủ tánh biết. Ta dùng đại thần thông Chấn động vô lượng cõi Thân mình đến khắp nơi Phục chúng khó phục kia. Thần thông diệu dụng của ngài làm chấn động vô lượng cõi, thân hình hiện khắp nơi để độ chúng sanh khó điều phục. Phước ta rất rộng lớn Như hư không vô tận Cúng dường chư Như Lai Lợi ích tất cả chúng. Phước của ngài cũng vô tận như hư không, làm lợi ích tất cả chúng sanh, cúng dường chư Phật. Trí ta rộng thanh tịnh Biết rõ biển các pháp Trừ diệt chúng sanh mê Ngươi nên nhập môn này. Trí của Bồ-tát là biết tất cả pháp, diệt trừ tất cả mê lầm chúng sanh. Ta biết tam thế Phật Và biết tất cả pháp Cũng biết phương tiện kia Môn này khắp vô thượng. Thấy trong mỗi vi trần Tam thế tất cả cõi Cũng thấy chư Phật kia Đây là phổ môn lực. Tất cả những hiểu biết trước không bị chướng ngại, không bị ngăn trở, đó là sức phổ môn. Trong thập phương sát trần Đều thấy Lô-xá-na Ngồi dưới cây bồ-đề Thành đạo diễn diệu pháp. Trong mười phương cõi nước nhiều như bụi, đều thấy pháp thân của Phật ngồi dưới cội bồ-đề thành đạo, diễn diệu pháp. Đoạn này ngài đã kể hết khả năng giáo hóa của mình. Thiện Tài thưa rằng: Đức Thánh phát tâm vô thượng Bồ-đề được bao lâu? Được môn giải thoát này hồi nào mà có thể lợi ích chúng sanh như vậy? Chủ dạ thần nói: Này Thiện nam tử! Thuở xưa quá Tu-di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Tịch Tịnh Quang, thế giới tên Xuất Sanh Diệu Bảo, có năm ức Phật xuất hiện trong đó. Trong thế giới Xuất Sanh Diệu Bảo có tứ thiên hạ tên Bảo Nguyệt Đăng Quang, có thành tên Liên Hoa Quang, vua hiệu Thiện Pháp Độ dùng pháp trị dân, đầy đủ thất bảo. Vua có phu nhân tên là Pháp Huệ Nguyệt giữa đêm đang ngủ trên giường. Ở phía đông thành có khu rừng lớn tên là Tịch Trụ, trong rừng có cây bồ-đề lớn tên là Nhất Thiết Quang Ma-ni Vương Trang Nghiêm. Thân thường xuất sanh thần lực quang minh của tất cả Phật. Bấy giờ, có đức Phật thành Đẳng chánh giác dưới cây bồ-đề này hiệu là Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương phóng quang minh rộng lớn vô lượng màu chiếu khắp thế giới Xuất Sanh Diệu Bảo. Trong thành Liên Hoa Quang có Chủ dạ thần tên Tịnh Nguyệt đến cung, động chuỗi ngọc để đánh thức phu nhân Pháp Huệ Nguyệt mà bảo rằng: Này Phu nhân! Nơi rừng Tịch Trụ, đức Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương Như Lai thành Đẳng chánh giác. Dạ thần lại vì Phu nhân mà nói công đức thần lực tự tại của Phật, hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát, cho Phu nhân phát tâm vô thượng Bồ-đề đến cúng dường Phật và chư Bồ-tát cùng chúng Thanh văn. Này Thiện nam tử! Phu nhân Pháp Huệ Nguyệt thuở xưa chính là tiền thân của ta. Từ thuở đó ta phát tâm vô thượng Bồ-đề gieo căn lành, trải qua Tu-di sơn vi trần số kiếp chẳng sanh trong các ác đạo, cũng chẳng sanh nơi nhà hạ tiện. Ở trong nhân thiên, ta được phước đức thù thắng, chẳng sanh ác thế, thường chẳng rời Phật và chư Bồ-tát đại thiện tri thức mà gieo trồng căn lành. Trải qua tám mươi Tu-di sơn vi trần số kiếp thường được an lạc, mà chưa đầy đủ chư căn của Bồ-tát. Lại trải qua vạn kiếp trước Hiền kiếp, có một kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu, thế giới tên là Vô Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó tịnh uế xen lẫn, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó. Đức Phật đệ nhất hiệu là Tu-di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn. Lúc đó, ta là con gái của trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, dung nhan đoan chánh. Tịnh Nguyệt dạ thần vì bổn nguyện mà sanh trong vương thành Diệu Trang nơi một tứ thiên hạ ở Ly Cấu thế giới, làm Chủ dạ thần tên là Thanh Tịnh Nhãn. Một đêm ta nằm ngủ bên cha mẹ. Thanh Tịnh Nhãn dạ thần đến chấn động nhà ta, phóng quang minh hiện thân ca ngợi công đức của Phật và cho hay rằng: “Diệu Nhãn Như Lai ngồi tòa Bồ-đề mới thành Chánh giác.” Dạ thần khuyên ta cùng cha mẹ và quyến thuộc mau đến gặp Phật. Rồi Dạ thần tự làm tiền đạo dẫn đến chỗ Phật cúng dường. Ta vừa thấy Phật liền được tam-muội tên là “Xuất sanh kiến Phật điều phục chúng sanh tam thế trí quang minh luân”. Do được tam-muội này nên có thể nhớ Tu-di sơn vi trần số kiếp. Cũng thấy chư Phật xuất hiện trong những kiếp đó. Ta ở chỗ chư Phật nghe diệu pháp. Do nghe pháp nên được môn giải thoát pháp quang minh phá tối của tất cả chúng sanh này. Được môn giải thoát này, ta liền thấy thân mình đến Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả chư Phật trong những thế giới đó. Ta lại thấy thân mình ở chỗ chư Phật. Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, hiểu ngôn âm của họ, biết căn tánh của họ, biết họ thuở quá khứ đã từng được thiện hữu nhiếp thọ. Tùy sở thích của họ mà hiện thân cho họ hoan hỷ. Nơi môn giải thoát đã được, niệm niệm ta được tăng trưởng không ngớt. Ta lại thấy thân mình đến khắp trăm Phật sát vi trần số thế giới, tâm giải thoát kia cũng vẫn liên tục. Ta lại thấy thân mình đến khắp ngàn Phật sát, trăm ngàn Phật sát, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả Như Lai trong những thế giới đó, cũng thấy chính mình nghe chư Phật thuyết pháp, ghi nhớ thọ trì, quán sát giải quyết. Cũng biết những biển bổn sự, bổn nguyện của chư Phật đó. Chư Như Lai đó nghiêm tịnh Phật độ, ta cũng nghiêm tịnh. Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, tùy cơ nghi của họ mà hiện thân giáo hóa điều phục. Trong thời gian đó, môn giải thoát này niệm niệm tăng trưởng. Như vậy nhẫn đến sung mãn pháp giới. Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn “Bồ-tát phá Nhất thiết chúng sanh ám pháp quang minh giải thoát”. Như chư đại Bồ-tát thành tựu Phổ Hiền vô biên hạnh nguyện, vào khắp tất cả pháp giới hải, được Bồ-tát kim cang trí tràng tự tại tam-muội, xuất sanh đại nguyện, trụ trì Phật chủng, ở trong mỗi niệm thành mãn biển tất cả công đức lớn, nghiêm tịnh tất cả thế giới rộng lớn, dùng trí tự tại giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh, dùng trí tuệ nhật diệt trừ tất cả thế gian ám chướng, dùng trí dũng mãnh giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sanh, dùng trí tuệ nguyệt quyết rõ sự nghi hoặc của tất cả chúng sanh, dùng thanh tịnh âm dứt trừ tất cả sự chấp trước hữu lậu, thị hiện tất cả thần lực tự tại trong mỗi vi trần nơi tất cả pháp giới, trí nhãn thanh tịnh thấy khắp tam thế... Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, vào được cảnh giới đó, thị hiện được tự tại đó. Đây nói công hạnh vô lượng vô biên của Bồ-tát khiến cho ngài Thiện Tài khát ngưỡng mà tiến tu thêm. Này Thiện nam tử! Trong Bồ-đề Tràng đây có Chủ dạ thần tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Ta vốn từ thần đó phát tâm vô thượng Bồ-đề, thường dùng diệu pháp khai ngộ cho ta. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Giới thiệu Thiện Tài tới một vị khác để cầu đạo. Thiện Tài đồng tử cung kính hướng về dạ thần Bà-san-bà-diễn-để mà nói kệ rằng: Thấy ngài thân thanh tịnh Tướng hảo hơn thế gian Như Văn-thù-sư-lợi Cũng như Bảo Sơn vương. Thiện Tài ca tụng khi được sự chỉ dạy của đại thiện tri thức trên. Đồng tử thấy thân của dạ thần Bà-san-bà-diễn-để tốt đẹp quý báu, giống như thân của các ngài Xá-lợi-phất, Văn-thù-sư-lợi, Bảo Sơn vương. Ở đây tuy nói trên thân nhưng thật sự là ca tụng về trí tuệ, khen ngợi người đạt được Căn bản trí như ngài Văn-thù-sư-lợi hay Bảo Sơn vương. Pháp thân ngài thanh tịnh Tam thế đều bình đẳng Vào tất cả thế giới Thành hoại không chướng ngại. Khen ngợi pháp thân thanh tịnh, tam thế đều bình đẳng. Cho nên vào tất cả thế giới thành hay hoại, đều không chướng ngại pháp thân. Tôi xem tất cả loài Đều thấy hình tượng ngài Trong mỗi mỗi lỗ lông Tinh nguyệt đều phân bố. Xem trong tất cả mỗi lỗ chân lông của muôn loài đều thấy hình tượng ngài, bao nhiêu mặt trời, mặt trăng, sao… đều hiện rõ trong đó. Tâm ngài rất quảng đại Như hư không mười phương Chư Phật đều vào trong Thanh tịnh vô phân biệt. Tâm rộng rãi vô lượng, chư Phật khắp mười phương đều hiện trong đó mà ngài không phân biệt. Nếu chúng ta tu như các vị Bồ-tát hay chư thiền sư, tâm không dính mắc trong các niệm sanh diệt, mới biết nó trùm khắp pháp giới, không phân biệt đối đãi. Trong mỗi mỗi lỗ lông Đều phóng vô số quang Chỗ chư Phật mười phương Khắp rưới đồ trang nghiêm. Trong mỗi mỗi lỗ lông Đều hiện vô số thân Khắp quốc độ mười phương Phương tiện độ chúng sanh. Trong mỗi mỗi lỗ lông Thị hiện vô lượng cõi Tùy sở thích chúng sanh Cho họ được thanh tịnh. Nếu có các chúng sanh Nghe danh và thấy thân Đều được công đức lợi Thành tựu Bồ-đề đạo. Nhiều kiếp ở ác đạo Mới được thấy nghe ngài Cũng nên hoan hỷ thọ Vì để diệt phiền não. Ngàn cõi vi trần kiếp Khen ngài chút công đức Kiếp số có cùng tận Đức ngài không cùng tận. Kiếp số còn có cùng tận, nhưng công đức của ngài thì không cùng tận. Vì nơi mỗi lỗ chân lông đều hiện vô số thân để cứu giúp chúng sanh. Kế đến nói về Chủ dạ thần. Vị này ở trong Bồ-đề đạo tràng tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Thiện Tài đến học với vị này, để đạt dược địa thứ hai trong Thập địa là Ly cấu địa. Ly cấu địa là lìa nhiễm ô, vì vậy pháp tu này là trì giới, làm chủ chín pháp kia. Tên Phổ Đức Tịnh Quang tượng trưng cho trí sáng suốt như mặt trời, lấy đó làm giới thể. Trí sáng suốt ấy chiếu khắp là dụng. Bồ-đề Tràng là chỉ cho Căn bản trí. Phương pháp tu của vị này là tứ thiền định, tuỳ theo hạnh đại bi và căn cơ của chúng sanh mà giáo hoá, ý nghiệp thanh tịnh, trí tự sáng suốt, muôn cảnh tự hiện, lấy đó làm thiền môn. Thiền giả không chỉ ngồi yên lặng mới gọi là tu thiền, mà lúc nào cũng sáng suốt đối với muôn cảnh. Tâm như cảnh như, tâm cảnh nhất như. Thiện Tài nói kệ xong, đảnh lễ nơi chân Dạ thần, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Lúc đó, Thiện Tài biết rõ dạ thần Bà-san-bà-diễn-để khi mới phát tâm vô thượng Bồ-đề, phát sanh Bồ-tát tạng, thệ phát Bồ-tát nguyện, thanh tịnh Bồ-tát độ, nhập Bồ-tát địa, tu Bồ-tát hạnh, hành xuất ly đạo, quang minh Nhất thiết trí, tâm cứu khắp chúng sanh, nổi mây đại bi khắp nơi, thường có thể xuất sanh hạnh nguyện Phổ Hiền tận thuở vị lai nơi tất cả Phật độ. Thiện Tài đi lần đến chỗ dạ thần Phổ Đức Tịnh Quang, đảnh lễ nơi chân, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào tu Bồ-tát địa, thế nào xuất sanh Bồ-tát địa, thế nào thành tựu Bồ-tát địa? Dạ thần nói: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử đã có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Nay lại hỏi tu hành xuất sanh và thành tựu Bồ-tát địa. Này Thiện nam tử! Bồ-tát thành tựu mười pháp thì có thể viên mãn Bồ-tát hạnh: Nếu người thành tựu mười pháp thì có thể thành tựu Bồ-tát hạnh. Một là được thanh tịnh tam-muội thường thấy chư Phật. Được chánh định thường thấy chư Phật tam-muội. Thấy Phật ở đây là tâm lặng lẽ như như nên pháp thân hiện bày, không phải tưởng tượng rồi thấy hình tượng Phật bên ngoài. Nên biết thấy Phật là thấy Phật pháp thân của mình, không phải Phật bên ngoài. Hai là được thanh tịnh nhãn thường xem tướng hảo trang nghiêm của chư Phật. Được con mắt thanh tịnh, thấy thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm của chư Phật. Nhớ đến ba mươi hai tướng tốt của đức Thế Tôn, tướng thứ nhất ra sao, tướng thứ hai, tướng thứ ba, tướng thứ tư… Nhớ đủ ba mươi hai tướng như thế gọi là tướng hảo trang nghiêm. Do con mắt thanh tịnh thấy được công đức diệu dụng vô lượng của chư Phật đã làm lợi ích chúng sanh, lấy đó tự trang nghiêm. Ba là biết tất cả Như Lai vô lượng vô biên công đức đại hải. Biết công đức của Phật không lường được giống như biển cả. Bốn là biết vô lượng Phật pháp quang minh hải khắp pháp giới. Biết Phật pháp mà Phật đã giảng dạy giáo hóa chúng sanh, nhiều như biển, đầy khắp pháp giới. Năm là biết tất cả Như Lai, mỗi mỗi lỗ lông phóng đại quang minh hải đồng số chúng sanh lợi ích tất cả chúng sanh. Trí tuệ đức Phật viên mãn, hiện bày nơi nơi làm lợi ích chúng sanh. Sáu là thấy tất cả Như Lai, mỗi lỗ lông phóng ra quang minh diệm hải đủ tất cả bảo sắc. Bảy là trong mỗi niệm xuất hiện tất cả Phật biến hóa hải đầy khắp pháp giới, rốt ráo tất cả cảnh giới chư Phật điều phục chúng sanh. Tuỳ cơ ứng hoá, hiện tất cả cảnh giới chư Phật để điều phục chúng sanh. Tám là được Phật âm thanh đồng tất cả chúng sanh ngôn âm hải, chuyển pháp luân tam thế Phật. Đầy đủ ngôn ngữ giáo hóa chúng sanh. Chín là biết tất cả Phật vô biên danh hiệu hải. Phật có vô lượng vô biên danh hiệu, tuỳ theo công đức mà đặt tên. Mười là biết tất cả chư Phật bất tư nghì tự tại lực điều phục chúng sanh. Biết Phật có bất tư nghì tự tại để điều phục, giáo hoá chúng sanh. Này Thiện nam tử! Bồ-tát thành tựu mười pháp này thì có thể viên mãn công hạnh Bồ-tát. Nếu người nào thành tựu được mười pháp như vậy thì viên mãn công hạnh Bồ-tát. Này Thiện nam tử! Ta được Bồ-tát giải thoát tên là “Tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ”, thấy khắp tất cả chư Phật tam thế, cũng thấy nơi chư Phật đó: Quốc độ thanh tịnh, đạo tràng, chúng hội, thần thông, danh hiệu, thuyết pháp, thọ mạng, ngôn âm, thân tướng... nhiều loại chẳng đồng, tất cả ta đều thấy rõ mà không chấp lấy. Được Bồ-tát Tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ chỉ dạy, thấy khắp chư Phật mà không chấp. Tại sao vậy? Vì biết rằng: Đức Như Lai chẳng phải đi, vì đã diệt hẳn thời gian không gian. Tại sao thấy Phật mà không chấp? Vì biết đức Như Lai chẳng đi. Vì sao chẳng đi? Vì đã diệt hẳn thời gian không gian. Trong kinh Quán Lượng phá chấp đi đến, đi không phải đi, để biết người hiểu Phật là người biết Như Lai không đi không đến. Tại sao không đi không đến? Vì không còn mắc kẹt thời gian không gian. Có đi có đến là có thời gian không gian. Nếu vượt ngoài thời gian không gian thì không có đi đến. Cho nên kinh Kim Cang nói Như Lai vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai. Như Lai không từ đâu lại, cũng không đi về đâu. Nếu biết Phật mà còn hạn cuộc trong thời gian không gian là chấp trước, chưa phải biết Phật. Vì biết đức Như Lai chẳng phải đến, vì thể tánh vô sanh. Nói Như Lai chẳng đi vì đã diệt hẳn thời gian không gian, vì không sanh nên không đến. Đức Như Lai chẳng phải sanh, vì pháp thân bình đẳng. Pháp thân bình đẳng bất sanh bất diệt. Bình đẳng thì còn nói gì sanh diệt. Tu thế nào để được pháp thân bình đẳng bất sanh bất diệt? Khi nào không còn niệm phân biệt, không còn niệm sanh diệt thì thấy pháp thân bình đẳng. Trong mọi sinh hoạt thường ngày nhận ra pháp thân bình đẳng ngay nơi mình, chớ tìm kiếm đâu xa. Nhân đó mà đầy thì quả pháp thân viên mãn, gọi là Như Lai. Đức Như Lai chẳng phải diệt, vì không có tướng sanh. Đức Như Lai chẳng phải thật, vì an trụ pháp như huyễn. Nói Phật cũng không thật, làm cho mình hoảng hốt. Vì sao Phật không thật? Vì an trụ pháp như huyễn, bởi an trụ pháp như huyễn nên không thật. Đức Như Lai chẳng phải vọng, vì lợi ích chúng sanh. Ở trên nói không phải thật, ở đây nói không phải vọng. Không phải vọng tức là thật, không phải thật tức là vọng. Chúng ta nên nhớ kỹ, chư Phật Bồ-tát ở trong cái bất sanh bất diệt, vì chúng sanh mà hóa hiện độ thoát. Do hóa hiện độ thoát nên nói như huyễn. Nghe như huyễn người ta lầm tưởng việc này không có thật. Nên ở đây mới giải thích đức Như Lai chẳng phải vọng, vì có làm lợi ích chúng sanh. Nói thế để chúng ta không lầm lẫn, chấp Phật là giả, tức không có Phật. Đức Như Lai chẳng phải dời đổi, vì vượt khỏi sanh tử. Sở đĩ còn sanh tử nên còn dời đổi, không còn sanh tử nên không còn dời đổi. Đức Như Lai chẳng phải hư hoại, vì tánh thường chẳng biến đổi. Đức Như Lai một tướng, vì đều rời ngôn ngữ. Thành một tướng là sao? Là vô tướng. Vô tướng chứ không phải một tướng là có tướng riêng. Vì tánh tướng vốn không, đức Như Lai một tướng vì đều rời ngôn ngữ. Còn có hình tướng riêng thì tất nhiên còn dùng ngôn ngữ, nên gọi một tướng là vô tướng. Đức Như Lai vô tướng, vì tánh tướng vốn không. Thật tướng không có tướng nên nói nó vốn không. Nói nó vốn không, người ta hiểu lầm Như Lai không có, đó là chấp trên ngôn ngữ thành ra cuồng loạn. Một tướng là không tướng, tướng ấy không sanh diệt, như như bất động. Chỗ này rất khó diễn tả, chỉ người nào thật tu thật chứng, nhận ra pháp thân nơi mình mới thấy thật tướng vô tướng. Bao giờ chúng ta không còn niệm dấy động mà vẫn thường sáng, mới thấy pháp thân vô tướng. Chỗ này vượt ngoài đối đãi phàm tục, có không. Vì không tướng nên đâu phải có, vì thường giác nên đâu phải không. Chúng ta cố gắng tu mới nhận chân được lẽ thật này. Này Thiện nam tử! Lúc ta biết rõ tất cả Như Lai như vậy, nơi môn giải thoát “Bồ-tát tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ” tỏ thấu rõ ràng, thành tựu tăng trưởng, tư duy quán sát, kiên cố trang nghiêm, chẳng khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh. Chỗ này không khéo nhận sẽ thấy dường như mâu thuẫn. Khi tu tập pháp môn giải thoát Bồ-tát tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ, thành tựu tăng trưởng tư duy quán sát kiên cố trang nghiêm. Tư duy quán sát là có suy nghĩ, có trí dụng, nhưng chẳng khởi vọng tưởng phân biệt. Điều này thế gian cho là khó hiểu, nhưng với cái nhìn trong đạo thì không khó, không có gì mâu thuẫn. Thí dụ khi ta nhìn cái bàn, hoặc khen đẹp hoặc chê xấu, đó là vọng tưởng phân biệt. Bây giờ nhìn cái bàn, mình biết rõ nó không thật, do duyên hợp giả có, đó là tư duy quán sát. Tư duy quán sát thuộc về trí tuệ, tuy cũng phân biệt nhưng không chấp tốt xấu, không khởi ái niệm, vì vậy không có lỗi. Phân biệt tốt xấu rồi sanh yêu ghét, đó là sự phân biệt của vọng tưởng, của tham sân si, là gốc trầm luân sanh tử, không phải của trí tuệ. Ở đây dạy dùng tư duy quán sát mà không có phân biệt vọng tưởng, khởi đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh. Thấy ra các pháp không thật mà chúng sanh lầm mê tưởng là thật nên bị cuốn trôi trong đó, Bồ-tát thương xót họ mà cứu độ. Nhất tâm chẳng động: Tu tập Sơ thiền, dứt tất cả ý nghiệp, nhiếp tất cả chúng sanh, trí lực dũng mãnh, hỷ tâm vui vẻ. Biết các pháp không thật nên nhất tâm bất động tu tập Sơ thiền. Khi tu Sơ thiền dứt tất cả ý nghiệp, không chỉ dứt cho mình thôi mà nhiếp tất cả chúng sanh, trí lực dũng mãnh, hỷ tâm vui vẻ. Thành ra công phu đến đây là ý nghiệp thanh tịnh, mới hay nhiếp hóa chúng sanh. Đó là Sơ thiền. Tu đệ Nhị thiền, tư duy tất cả chúng sanh tự tánh, nhàm lìa sanh tử. Nhị thiền là sao? Xét thấy tánh của chúng sanh không thật nên xa lìa sanh tử. Đó là Nhị thiền. Tu đệ Tam thiền, đều có thể dứt diệt những khổ nhiệt não của tất cả chúng sanh. Đệ Tam thiền là dứt diệt phiền não của tất cả chúng sanh. Tu đệ Tứ thiền, tăng trưởng viên mãn nguyện Nhất thiết trí, xuất sanh tất cả những biển tam-muội. Nhập những Bồ-tát giải thoát môn, du hý tất cả thần thông, thành tựu tất cả biến hóa, dùng trí thanh tịnh vào khắp pháp giới. Này Thiện nam tử! Lúc ta tu môn giải thoát này dùng các thứ phương tiện để thành tựu chúng sanh. Như là đối với người tại gia phóng dật, làm cho họ có cảm tưởng bất tịnh, đáng nhàm lìa, mỏi nhọc, bức bách, ràng buộc, họa hại, vô thường, khổ, vô ngã, rỗng không, vô sanh, chẳng tự tại, già bệnh chết... để cho họ ở nơi cảnh ngũ dục tự chẳng mến chấp và cũng khuyên người khác chẳng đắm nơi dục lạc, chỉ an trụ nơi pháp lạc, ra khỏi nhà hữu vi mà vào nhà vô vi. Nếu có chúng sanh ở nơi chỗ không nhàn, thì ta vì họ mà ngăn dứt những âm thanh xấu ác. Lúc đêm vắng tịch tịnh ta vì họ mà thuyết pháp. Ban cho họ duyên tu hành thuận tiện, mở cửa xuất gia, chỉ đường chân chánh. Nhiều người lầm tưởng, nghe trong kinh nói đêm đêm Bồ-tát vì chúng sanh thuyết pháp, rồi cứ nói ri rỉ bên tai thiên hạ, cho đó là Bồ-tát thuyết pháp. Cứ thế lâu ngày thành điên. Bồ-tát tùy duyên giáo hóa chúng sanh, nhưng không phải lúc nào các ngài cũng rỉ vào tai chúng sanh. Chỗ này cẩn thận, đừng lầm lẫn mà rơi vào đường hiểm. Vì họ mà làm ánh sáng trừ ám chướng, diệt kinh sợ, khen hạnh xuất gia, ca ngợi Phật, Pháp và Tăng cùng thiện tri thức đủ những công đức, cũng khen hạnh gần gũi thiện tri thức. Lại này Thiện nam tử! Lúc ta tu môn giải thoát, làm cho các chúng sanh chẳng khởi lòng tham phi pháp, chẳng khởi tà kiến, chẳng phạm tội ác, nếu đã làm ác thì khiến thôi dứt. Nếu chưa sanh pháp lành, chưa tu hạnh ba-la-mật, chưa cầu Nhất thiết trí, chưa khởi đại từ bi, chưa tạo nghiệp nhân thiên thì đều làm cho phát sanh, nếu đã sanh rồi thì làm cho thêm lớn. Ta ban cho họ nhân duyên thuận đạo như vậy, nhẫn đến khiến họ thành Nhất thiết chủng trí. Này Thiện nam tử! Ta chỉ được môn giải thoát “Bồ-tát tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ” này. Như chư đại Bồ-tát đầy đủ hạnh nguyện Phổ Hiền, liễu đạt tất cả vô biên pháp giới, thường có thể tăng trưởng tất cả thiện căn, chiếu thấy trí lực của tất cả Như Lai, an trụ nơi cảnh giới của tất cả Như Lai, hằng ở sanh tử tâm không chướng ngại, mau đầy đủ được nguyện Nhất thiết trí, đến tất cả thế giới, đều có thể xem thấy tất cả chư Phật, có thể khắp thính thọ tất cả Phật pháp, có thể phá tất cả si ám của chúng sanh, có thể ở trong đêm dài sanh tử mà xuất sanh tất cả trí tuệ quang minh... Ta thế nào biết được, nói được những công đức hạnh đó. Này Thiện nam tử! Cách đây không xa, bên phía hữu đạo tràng Bồ-đề, có một dạ thần tên là Hỷ Mục Quán Sát Chúng Sanh. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Phổ Đức Tịnh Quang dạ thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng: Nếu có lòng tin hiểu Thấy hết tam thế Phật Người này mắt thanh tịnh Vào được biển chư Phật. Người xem thân chư Phật Tướng thanh tịnh trang nghiêm Một niệm sức thần thông Đều sung mãn pháp giới. Lô-xá-na Như Lai Đạo tràng thành Chánh giác Trong tất cả pháp giới Chuyển pháp luân thanh tịnh. Như Lai biết pháp tánh Tịch diệt không có hai Tướng thanh tịnh nghiêm thân Hiện khắp các thế gian. Người nào thấy ba đời chư Phật, người đó có con mắt thanh tịnh, vào được biển chư Phật. Người nào xem được thân tướng thanh tịnh trang nghiêm của chư Phật, được thần thông khắp pháp giới, thấy đức Phật Lô-xá-na ngồi đạo tràng thành Chánh giác, chuyển pháp luân v.v... và biết tất cả pháp tánh tịch diệt không hai tướng, thân thanh tịnh trang nghiêm hiện khắp tất cả thế gian, đó là người thâm nhập Bồ-tát đạo. Thân Phật bất tư nghì Pháp giới đều sung mãn Hiện khắp tất cả cõi Tất cả đều thấy rõ. Người thấy thân Phật hiện khắp tất cả nơi, không thể nghĩ bàn. Nếu thấy rõ pháp thân của chư Phật, cũng tức là thấy pháp thân của mình. Thân Phật thường quang minh Những màu sắc thanh tịnh Số Phật sát vi trần Niệm niệm khắp pháp giới. Như Lai một lỗ lông Phóng bất tư nghì quang Chiếu khắp các quần sanh Cho họ diệt phiền não. Như Lai một lỗ lông Xuất sanh vô tận hóa Đầy khắp cả pháp giới Diệt trừ khổ chúng sanh. Phật diễn một diệu âm Tùy loại đều tự hiểu Khắp mưa pháp quảng đại Khiến phát tâm Bồ-đề. Phật xưa tu các hạnh Đã từng nhiếp thọ ta Nên được thấy Như Lai Hiện khắp tất cả cõi. Đây là ca ngợi đức Phật có bao nhiêu màu sắc thanh tịnh, bao nhiêu cõi nước, mỗi niệm khắp các pháp giới. Mỗi lỗ chân lông đều hiện bất khả tư nghì thần thông ánh sáng để giáo hóa chúng sanh, khiến họ dứt sạch phiền não. Mỗi lỗ chân lông xuất sanh vô tận hóa, đầy khắp pháp giới để diệt khổ cho chúng sanh v.v... Mỗi lỗ chân lông xuất sanh vô tận quang minh biến khắp giáo hóa chúng sanh. Như vậy khắp thân Phật có bao nhiêu lỗ chân lông thì diệu dụng cũng nhiều chừng ấy. Cho nên nói diệu dụng của Phật không thể lường không thể tính kể. Đó là chỉ cho diệu dụng pháp thân Phật. Chúng ta tu hành trở về được pháp thân mới tự tại, đầy đủ vô lượng vô biên công đức, tùy cơ tùy dụng giáo hóa chúng sanh không ngăn ngại. Bồ-tát thể thập được pháp thân tùy duyên mà ứng hóa tự tại vô ngại. Chúng ta còn thân phàm tục, nếu giáo hóa chúng sanh sẽ gặp nhiều chướng ngại, từ đó dễ bị thối chuyển. Vì vậy cần phải tu tập để thể nhập được pháp thân. Chư Phật xuất thế gian Lượng bằng số chúng sanh Tất cả cảnh giải thoát Chẳng phải ta biết được. Chư Phật ra đời độ chúng sanh, lượng bằng số chúng sanh. Như vậy mỗi chúng sanh có một vị Phật giáo hóa, hay mỗi chúng sanh là một ông Phật. Không ai dám nói mình là Phật vì sợ mang tội tăng thượng mạn, nhưng thật sự chúng ta có chủng tử Phật. Nếu nỗ lực tu tập để được giác ngộ thì mỗi chúng sanh là một vị Phật. Tất cả đại Bồ-tát Vào một lỗ lông Phật Diệu giải thoát như vậy Chẳng phải ta biết được. Gần đây có dạ thần Tên Hỷ Mục Quán Sát Ngươi nên đến đó hỏi Học tu Bồ-tát hạnh. Các vị thần hồi xưa gốc là quý bà, nhờ phát tâm tu hành nên được làm thần. Thiện Tài đảnh lễ chân dạ thần Phổ Đức Tịnh Quang, hữu nhiễu vô số vòng ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Bấy giờ, Thiện Tài kính thuận lời dạy của thiện tri thức, thật hành theo lời thiện tri thức, tự nghĩ rằng: Khó thấy, khó gặp thiện tri thức. Thấy thiện tri thức thì tâm chẳng tán loạn. Thấy thiện tri thức thì phá núi chướng ngại. Thấy thiện tri thức thì vào biển đại bi cứu hộ chúng sanh. Thấy thiện tri thức thì được trí tuệ quang chiếu khắp pháp giới. Thấy thiện tri thức thì có thể tu hành đạo Nhất thiết trí. Thấy thiện tri thức thì có thể thấy khắp mười phương chư Phật. Thấy thiện tri thức thì được thấy chư Phật chuyển pháp luân ghi nhớ chẳng quên. Địa thứ ba là Phát quang địa. Ở đây nói trong mười độ, lấy Nhẫn nhục ba-la-mật làm chủ, chín pháp kia làm bạn. Vị này lấy hạnh nhẫn nhục trang nghiêm bên trong, dùng pháp từ bi ban khắp chúng sanh không biết chán, nên gọi là Hỷ mục quán sát chúng sanh. Biết rõ căn cơ chúng sanh tùy thì tiếp độ gọi đó là quán sát. Tên của vị thần này có ý nghĩa lấy đức nhẫn nhục thâm sâu, dùng lòng từ bi vui vẻ tiếp độ chúng sanh, tùy theo căn cơ của họ, không lỗi thời không trái với sở nguyện. Ngài ở trong chúng hội tại Bồ-đề Tràng, chứ không nơi nào khác. Bồ-đề Tràng là chỉ cho Căn bản trí. Vị này không rời Căn bản trí mà khởi tất cả hạnh, làm lợi ích chúng sanh, nên nói không rời Bồ-đề Tràng. Suy nghĩ như vậy, Thiện Tài muốn đến chỗ dạ thần Hỷ Mục Quán Sát Chúng Sanh. Lúc đó, Hỷ Mục dạ thần gia hộ cho Thiện Tài biết thân cận thiện tri thức có thể sanh những thiện căn tăng trưởng thành thục. Như là làm cho Thiện Tài biết thân cận thiện tri thức thì có thể tu các môn trợ đạo. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể khởi tâm dũng mãnh. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể tạo công hạnh không hư hoại. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể được sức không bị chế phục. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể nhập vô biên phương. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể tu hành lâu xa. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể làm xong vô biên công hạnh. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể thực hành vô lượng đạo. Biết thân cận thiện tri thức thì được sức tốc tật đến nhập các cõi. Biết thân cận thiện tri thức thì có thể chẳng rời bổn xứ mà đến khắp mười phương. Lúc đó, Thiện Tài liền phát ý nghĩ rằng: Do thân cận thiện tri thức mà có thể dũng mãnh siêng tu Nhất thiết trí đạo. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau xuất sanh những đại nguyện. Do thân cận thiện tri thức mà có thể vì chúng sanh thọ vô biên khổ tận kiếp vị lai. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mặc áo giáp đại tinh tấn, trong một vi trần thuyết pháp tiếng vang khắp pháp giới. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau đến tất cả phương. Do thân cận thiện tri thức mà ở trong một sợi lông tu Bồ-tát hạnh tận vị lai kiếp. Do thân cận thiện tri thức mà trong mỗi niệm thật hành Bồ-tát hạnh rốt ráo an trụ bậc Nhất thiết trí. Do thân cận thiện tri thức mà có thể nhập những đạo trang nghiêm thần lực tự tại của tất cả Như Lai. Do thân cận thiện tri thức mà có thể thường vào khắp các môn pháp giới. Do thân cận thiện tri thức nên thường duyên với pháp giới, dầu chưa từng động xuất mà có thể qua khắp quốc độ mười phương. Bấy giờ Thiện Tài từ giã dạ thần Phổ Đức Tịnh Quang ra đi. Ngài suy nghĩ quán sát lời giáo hoá của thiện tri thức, nhận ra chư Phật chuyển pháp luân, ghi nhớ không quên. Suy nghĩ như vậy rồi đến ra mắt dạ thần Hỷ Mục Quán Sát Chúng Sanh. Ngài biết rõ thiện tri thức là cần yếu, là trợ đạo, giúp mình sức mạnh trên con đường cầu đạo v.v... Ngài khen ngợi tán thán thiện tri thức, do gần thiện tri thức mà dũng mãnh siêng năng tu Nhất thiết trí, do gần thiện tri thức mà đạt được đại nguyện, đo gần thiện tri thức mà nhẫn được những cái khổ của đời vị lai, do gần thiện tri thức mà mặc áo giáp tinh tấn, do gần thiện tri thức mà mau đến tất cả phương v.v... Tất cả những tán thán ấy để chỉ cho công ơn của thiện tri thức, giúp chúng ta được nhiều lợi ích lớn lao trên đường cầu học đạo vô thượng Bồ-đề. Sau khi phát ý nghĩ như vậy, Thiện Tài đến chỗ dạ thần Hỷ Mục. Thấy Dạ thần này ở trong chúng hội đạo tràng của đức Như Lai, ngồi trên tòa sư tử Liên hoa tạng, nhập đại thế lực phổ hỷ tràng giải thoát. Ở trên thân của Dạ thần, mỗi lỗ lông phát ra vô lượng thân biến hóa, tùy theo cơ nghi dùng âm thanh vi diệu để vì họ thuyết pháp, nhiếp khắp tất cả chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ được lợi ích. Mỗi vị thần đều có trăm ngàn triệu ức công đức không thể lường. Cho nên nói trong mỗi lỗ chân lông có vô lượng thân biến hóa, tùy nghi làm lợi ích chúng sanh. Ở đây vị thần chưa nói gì hết, chỉ Thiện Tài nghĩ nhớ hiện ra. Như là: Hiện ra vô lượng hóa thân sung mãn hạnh tất cả thế giới mười phương, diễn nói những Bồ-tát hạnh Đàn ba-la-mật, nơi tất cả sự đều không luyến mến, đối với tất cả chúng sanh đều khắp bố thí với tâm bình đẳng không có khinh mạn, trong ngoài đều đem cho, có thể xả được thứ khó xả. Đó là Bồ-tát giáo hóa chúng sanh tập hạnh bố thí. Hiện ra vô lượng hóa thân bằng số chúng sanh đầy khắp pháp giới ở trước chúng sanh mà diễn nói trì tịnh giới không khuyết phạm, tu những khổ hạnh đều đầy đủ cả, không y tựa các thế gian, không ái nhiễm những cảnh giới. Nói sự qua lại trong sanh tử luân hồi. Nói hàng nhân thiên thạnh, suy, khổ, vui. Nói các cảnh giới đều là bất tịnh. Nói tất cả pháp đều vô thường. Nói tất cả hành pháp đều khổ vô vị. Nói như vậy để làm cho các thế gian rời bỏ điên đảo an trụ nơi cảnh giới Phật, trì giới pháp của Như Lai. Diễn nói những giới hạnh như vậy, giới hương xông khắp làm cho các chúng sanh đều được thành thục. Đó là Bồ-tát giáo hóa chúng sanh bằng cách trì giới thanh tịnh. Lại hiện ra vô lượng thân bằng số chúng sanh diễn nói nhẫn thọ được tất cả sự khổ. Như là bị cắt chém, đánh đập, mắng nhiếc, sỉ nhục, mà tâm vẫn thơ thới chẳng động, chẳng loạn; với tất cả công hạnh, chẳng quan niệm thấp cao; với tất cả chúng sanh chẳng có ý nghĩ ngã mạn; với các pháp tánh thì an trụ nhẫn thọ. Diễn nói tâm Bồ-đề không cùng tận vì tâm vô tận nên trí cũng vô tận, dứt phiền não của khắp tất cả chúng sanh. Diễn nói thân của chúng sanh chẳng hoàn cụ, ty tiện, xấu xí cho họ nhàm lìa; khen ngợi thân diệu sắc thanh tịnh vô thượng của Như Lai cho họ ham mến. Dùng những phương tiện như vậy để thành thục chúng sanh. Lại hiện ra vô lượng thân đồng với số chúng sanh, tùy theo tâm sở thích của chúng sanh mà nói dũng mãnh tinh tấn tu tập pháp trợ đạo Nhất thiết trí. Dũng mãnh tinh tấn hàng phục quân ma. Dũng mãnh tinh tấn phát Bồ-đề tâm chẳng động chẳng thối. Dũng mãnh tinh tấn độ tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Dũng mãnh tinh tấn trừ diệt tất cả nạn ác đạo. Dũng mãnh tinh tấn phá vỡ núi vô trí. Dũng mãnh tinh tấn cúng dường tất cả chư Phật Như Lai không nhàm mỏi. Dũng mãnh tinh tấn thọ trì tất cả pháp luân của chư Phật. Dũng mãnh tinh tấn làm tan tất cả mức chướng ngại. Dũng mãnh tinh tấn giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Dũng mãnh tinh tấn nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Dùng những phương tiện như vậy để thành thục chúng sanh. Lại hiện ra vô lượng thân, dùng nhiều phương tiện làm cho các chúng sanh có lòng hoan hỷ bỏ ác niệm, nhàm dục lạc. Diễn nói sự hổ thẹn, cho chúng sanh che giấu các căn. Diễn nói Phạm hạnh thanh tịnh vô thượng. Diễn nói Dục giới là cảnh của ma, cho họ kinh sợ. Vì họ mà hiện chẳng thích dục lạc của thế gian để an trụ nơi pháp lạc, theo thứ đệ nhập các thiền định, các tam-muội. Khiến họ tư duy quán sát diệt trừ tất cả phiền não. Lại diễn nói những môn tam-muội thần lực biển hiện tự tại du hý của Bồ-tát cho các chúng sanh hoan hỷ thích thú, rời sự lo sợ, tìm được thanh tịnh, căn tánh mãnh lợi, mến trọng chánh pháp tu tập tăng trưởng. Lại hiện ra vô lượng thân diễn nói qua đến mười phương quốc độ cúng dường chư Phật, sư trưởng, chân thiện tri thức; thọ trì pháp luận của chư Phật, siêng năng chẳng lười. Lại diễn nói ca ngợi tất cả chư Phật Như Lai, quán sát tất cả pháp môn, hiển thị cảnh tưởng của tất cả pháp, khai xiển tất cả môn tam-muội. Mở cảnh giới trí tuệ, cạn biển nghi của tất cả chúng sanh. Chỉ kim cang trí tuệ, phá vỡ núi kiến chấp của tất cả chúng sanh. Mọc mặt nhật trí tuệ phá si tối của tất cả chúng sanh, cho họ hoan hỷ thành Nhất thiết trí. Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh, tùy theo cơ nghi dùng nhiều ngôn từ để thuyết pháp. Hoặc nói thần thông phước lực thế gian. Hoặc nói tam giới đều đáng sợ, cho họ chẳng gây tạo nghiệp hạnh thế gian để rời tam giới, khỏi rừng kiến chấp. Hoặc ca ngợi đạo Nhất thiết trí cho họ siêu việt bậc Nhị thừa. Hoặc diễn nói chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết-bàn cho họ chẳng chấp hữu vi và vô vi. Hoặc diễn nói ở Đâu-suất thiên cung, nhẫn đến đạo tràng, cho họ vui thích phát tâm Bồ-đề. Dùng những phương tiện giáo hóa chúng sanh, cho họ rốt ráo được Nhất thiết trí. Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh, trong mỗi niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát. Trong mỗi niệm chỉ bày đại nguyện thanh tịnh sung mãn pháp giới. Trong mỗi niệm chỉ bày nghiêm tịnh tất cả thế giới. Trong mỗi niệm chỉ bày cúng dường tất cả Như Lai. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập tất cả pháp môn. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập tất cả Phật sát vi trần số thế giới. Trong mỗi niệm chỉ bày thanh tịnh tu hành đạo Nhất thiết trí nơi tất cả cõi tận kiếp vị lai. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập Như Lai lực. Trong mỗi niệm chỉ bày phương tiện nhập tất cả tam thế. Trong mỗi niệm chỉ bày hiện những thần thông biến hóa qua tất cả cõi. Trong mỗi niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện Bồ-tát cho tất cả chúng sanh an trụ Nhất thiết trí. Những việc làm như vậy luôn không thôi nghỉ. Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh nói vô biên tế lực của chư Bồ-tát chứa nhóm pháp trợ đạo Nhất thiết trí. Nói bất hoại lực, vô tận lực cầu Nhất thiết trí. Nói bất thối lực, vô gián lực tu hạnh vô thượng. Nói vô nhiễm lực đối với pháp sanh tử. Nói sức có thể phá tất cả ma chúng. Nói sức có thể xa rời tất cả phiền não. Nói sức có thể phá tất cả núi nghiệp chướng. Nói sức không mỏi trụ tất cả kiếp tu hành đại bi. Sức chấn động tất cả quốc độ làm cho tất cả chúng sanh sanh lòng hoan hỷ. Sức có thể phá tất cả ngoại đạo. Sức chuyển pháp luân trong các thế gian. Dùng những phương tiện thành thục như vậy làm cho các chúng sanh đến Nhất thiết trí. Lại hiện ra vô lượng thân biến hóa đến khắp vô lượng thế giới, tùy theo tâm của chúng sanh mà diễn nói trí hạnh của tất cả Bồ-tát. Như là nói trí nhập tất cả chúng sanh giới, trí nhập tất cả chúng sanh tâm, trí nhập tất cả chúng sanh căn, trí nhập tất cả chúng sanh hạnh, trí độ tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời, trí phát ra tất cả pháp giới âm thanh, trí mỗi niệm khắp tất cả pháp giới, trí mỗi niệm biết tất cả thế giới hoại, trí mỗi niệm biết tất cả thế giới thành trụ trang nghiêm sai khác nhau, trí mỗi niệm tự tại thân cận cúng dường tất cả Như Lai thính thọ pháp luân. Vị thân này từ mỗi lỗ chân lông đều hiện ra vô số hóa thân, trong những hóa thân ấy đều giáo hóa chúng sanh đầy đủ thập ba-la-mật. Thị hiện Trí ba-la-mật như vậy, làm cho các chúng sanh đều rất hoan hỷ thơ thới thích thú, lòng họ thanh tịnh, sanh trí hiểu quyết định cầu Nhất thiết trí không thối chuyển. Như nói các môn ba-la-mật của Bồ-tát thành thục chúng sanh, tuyên nói những hành pháp của tất cả Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sanh cũng như vậy. Như vậy vị thần có dạy Thiện Tài điều gì chưa? Chưa, chỉ thấy từ mỗi lỗ chân lông của vị ấy hiện ra vô số hóa thân giáo hóa chúng sanh. Mục Lục
|
Thanh Từ Toàn Tập 11 - Kinh Hoa Nghiêm Trích Giảng (Phần 2)
|